Nước Về Đông

28/02/2016 | Chuyên mục: THƠ . 2475 Lượt xem

1.
Lửa cháy ngàn dâu còn tỏ mặt
Đời người muôn thuở nghĩ mà thương
Nước cau gợn tí, màu trong đục
Ruột quặn bào cơn, khúc đoạn trường
Xa mã xuống lên, trò phế thịnh
Thị phi sấp ngửa, lẽ vong hưng
Cố nhân vọng biệt phương hà ngoại!
Tri kỷ, tri âm mấy đổi đường!

2.
Tri kỷ tri âm mấy đổi đường!
Tri âm tri kỷ mấy màu sương
Nhìn nhau tư kiến vàng hay tím?
Lòng với nghi tâm đỏ hóa hường?
Mắt váng hồ xanh chao chiếc nhạn
Đèn hoa bụi xám vấy màn gương
Vô tâm mây trắng thong dong nhỉ?
Đời tối, riêng ai muốn tỏ tường?

3.
Đời tối riêng ai muốn tỏ tường?
Với ai mòn trán lý chơn thường
Bạc tiền bao nả, cay cay mắt
Cơm áo đòi phen, xót xót lòng
Phải trái nói năng đà mỏi miệng
Chánh tà đi đứng đã đau lưng
Muôn xưa hoa nở, hoa im lặng
Một mảnh sao sa, rụng cuối đường!

4.
Một mảnh sao sa, rụng cuối đường!
Với ai tri lý chẳng gì vương
Ngọc reo địch trổi say hồn bậu
Suối hát chim ca lạc phách nường
Thâm tận thâm khê tình tải tuyết
Cao ư cao lãnh trí lưu sương
Ải sương cửa tuyết trăng nhờn nhạt
Soi tỏ trăm năm chắc dị thường!

5.
Soi tỏ trăm năm chắc dị thường!
Thu mờ hiu hắt bến Tầm Dương
Khúc ca“đình hậu”hồng nhan đoạn
Tiếng hát“tỳ bà”bạc mệnh trường
Văng vẳng“ly tao”chìm khí tiết
Mang mang“quy khứ”thú điền viên
Nào ai không phải, nào ai phải!
Cuồn cuộn về Đông, nước lạnh lùng!

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

 

(NGUYỄN họa)

1.
Cuộc thế bon chen bùn lấm gót
Bể trần lai láng nỗi sầu thương
Tử sinh đòi đoạn tuồng kinh cụ
Suy thịnh đa đoan cảnh hí trường
Ngược nẻo phù du trời biến ảo
Xuôi dòng hư hoặc đất vong hưng
Ngẩn ngơ đứng mãi bên bờ mộng
Chỉ nhện nhặt thưa dệt vạn đường

2.
Chỉ nhện nhặt thưa dệt vạn đường
Ngàn sau ngàn trước lạnh tin sương
Qua sông hỏi nắng: Nhân xanh mọng
Xuống núi tìm trăng: Quả chín hường
Thơ thẩn bên trời buông tiếng hú
Ngu ngơ cuối bãi níu tà gương
Vỗ vai tục khách, mắt tròn gặng
Kim cổ về đâu? Có tỏ tường?

3.
Kim cổ về đâu? Có tỏ tường?
Không không sắc sắc cảnh vô thường
Nao nao gió cuốn đìu hiu dạ
Man mác mây trôi quạnh quẽ lòng
Phú quí vinh hoa chừng mỏi gối
Công hầu khanh tướng những còm lưng
Núi xương sông máu cao lồ lộ
Lưu thủy hành vân mấy dặm đường

4.
Lưu thủy hành vân mấy dặm đường
Chính tà bao kiếp dứt tơ vương
Bại thành: Mật đắng lời êm ả
Vinh nhục: Gừng cay sắc nõn nường
Lạc đạo, nào người xuôi bến gió
Thanh tâm, ai kẻ ngược bờ sương
Lý tình hai nẻo – duyên hằng tại
Tạo vật phù sinh lắm dị thường

5.
Tạo vật phù sinh lắm dị thường
Phá vòng hạn hữu vượt tà dương?
Gươm từ vạch lối xua hư ảo?
Đuốc tuệ soi tâm xóa mộng trường?
Nguồn cội mơ màng treo ấn nguyệt
Cổ kim lồng lộng tỏa hương viên
Vô chung vô thủy – duyên tùy nghiệp
Một thoáng về Đông, nước lạ lùng!

 

(LÊ VĂN LỢI họa)

1.
Gốc cũ mỗi khi nhìn tận mặt
Nhẹ nhàng cái chuyện ghét cùng thương
Trong vòng đối đãi, thanh ly trọc
Ngoài cuộc so đo, đoản hiệp trường
Sóng gợn bóng nhòa, thành khác hoại
Gió yên trăng tỏ, phế là hưng
Thảnh thơi năm cửa tiêu dao nhỉ?
Thúy trúc, hoàng hoa nửa đổi đường

2.
Cuồn cuộn về đông ấy lẽ thường
Đông tàn ắt đến lúc tam dương
Tần Hoài một thuở lung sa nguyệt
Vũ Hán đòi phen lộng hý trường
Bá Trượng dã hồ nhân lạc, muội!
Tào Khê vô trú quả phương, viên!
Núi xanh còn đó chiều u tịch
Soi tỏ trăm năm nước lạnh lùng!

 

(NGUYỆT ĐÌNH soạn-
theo lối tập cổ)

Lửa cháy ngàn dâu còn tỏ mặt
Đời người muôn thuở nghĩ mà thương
Nhìn nhau tư kiến vàng hay tím
Lòng với nghi tâm đỏ hóa hường
Ngọc reo địch trổi say hồn bậu
Suối hát chim ca lạc phách nường
Một thoáng trăm năm rồi một kiếp
Tỳ bà, Đình hậu, hạc kêu sương!

(Đoạn 4)

Thần câu bon vó, thẳng lên đường
Chiếm cõi, công thành mộng Bá Vương
Tiếng khóc ải ngoài, gươm bạo chúa
Nụ cười đình hậu, phấn ca nương
Bại thành dâu bể, làn hơi khói
Danh lợi phù vân, hạt móc sương
Xót nỗi bụi hồng mờ bến giác
Bồn ca vỗ khúc gẫm vô thường!

 

nuocvedong