Bảy Năm Trong Bình Máu (Tiểu truyện Sīvali tôn giả)

10/07/2015 | Chuyên mục: VĂN . 3245 Lượt xem

sivaliTừ giã thị trấn Haliddavasana, đức Phật và đại chúng chậm rãi bộ hành về hướng Devadaha, là kinh đô của nước Koliya, là quê ngoại của ngài. Lần này, đi theo đức Phật hầu như có đủ mặt các ông hoàng, công tử cả hai quốc độ thuở trước, đấy là các trưởng lão Ānanda, Kāḷudāyi, Bhaddiya, Devadatta, Kimbila, Anuruddha… cùng chàng thợ cạo Upāli mà bây giờ đã là bậc trưởng lão, tuy chưa có danh xưng gì nhưng được xem như là bậc đệ nhất về tri luật!

Bao nhiêu năm qua rồi, khuôn mặt của kinh thành cũng không thay đổi mấy. Xóm phường lao động thì vẫn bụi và rác, vẫn bò và dê bên những ngôi nhà tồi tàn nhiều năm không được tu sửa, chỉnh trang. Họ vẫn an phận thủ thường với cái nghèo của mình. Giới nô lệ thì cứ vẫn là nô lệ, bị đẩy bật ra ngoài mọi sinh hoạt công cộng. Giới lao động chân tay thì cứ vẫn đen đúa, nhem nhuốc với những công việc hạ cấp của mình. Những khu nhà của giới thương gia, quý tộc thì vẫn uy nghi, hiển hách, cứ vẫn là giàu sang và vương giả như thuở nào!

Đến Devadaha thì trời vừa tối, tôn giả Sāriputta thu xếp, phân phối đại chúng tạm thời qua đêm quanh các khu rừng để khỏi phiền đến cận sự nam nữ cũng như cư dân trong vùng.

Rạng ngày, như những cánh chim lìa rừng, đức Phật và đại chúng tách ra từng toán nhỏ đi trì bình khất thực khắp các ngã đường. Dân chúng và phố phường có vẻ xôn xao khi hay tin giáo đoàn của đức Phật đang ở trong thành phố. Vả chăng, đây là quê hương của Devadatta và Yasodharā mà ai ai cũng nghe danh. Và ai cũng biết chuyện đức vua Suppabuddha đã thâm thù đức Phật đến tận tủy xương khi đã cướp đi con trai và con gái của ông! Tuy nhiên, mấy giáo đoàn đang hành hóa tại xứ sở này lại rất thành công. Giới quý tộc, chiến sĩ, thương gia cũng như dân chúng phát sanh tâm tín mộ dạt dào. Có nhiều cư sĩ đắc quả thánh. Rất nhiều quý tộc, thương gia đã đứng vào hàng ngũ cư sĩ cận sự hai hàng. Dầu chưa có những tòng lâm lớn rộng nhưng các sinh hoạt tại những tăng xá, cốc liêu của chư tỳ-khưu đã tạo ra được cơ sở vững chắc. Gần đây, trưởng lão ni Gotamī và Yasodharā đã tạo lập đươc ba ni viện. Một ở Koliya, một ở Kapilavatthu và một ở Savatthī dành cho tỳ-khưu-ni, nghe đâu cũng thành công.

Khi thấy bình bát đã vừa đủ dùng, đức Phật, hai vị đại đệ tử cùng Ānanda tìm đường đến ni viện để ngọ trai. Một khu vườn xanh mát với nhiều liêu cốc tranh tre thanh nhã hiện ra với nhiều chiếc bóng vàng tới lui thấp thoáng. Rất đông tỳ-khưu-ni lạ mặt ra đón tiếp tăng đoàn. Bất chợt, tỳ-khưu-ni Khemā và Dhammadinnā ra quỳ đảnh lễ và họ cho biết là vừa từ Trúc Lâm sang; còn trưởng lão ni Gotamī, Yasodharā và Sundrinandā thì đang ở Savatthī.

Đức Phật an tọa trên bồ đoàn, thăm hỏi công việc hoằng hóa ở Koliya sau khi đức vua Suppabuddha qua đời. Lát sau, các vị trưởng lão Bhaddiya, Devadatta, Kimbila… dẫn chư tăng trong vùng đến đảnh lễ, hầu thăm đức Phật và đại chúng. Hóa ra ở nơi này, chư tăng cũng đã kiến lập khá nhiều cơ sở, đặc biệt có một khu lâm viên khá lớn, sức chứa có thể lên đến năm, bảy trăm vị. Công trình này do họ hàng hoàng gia bên nội của Devadatta và công nương Yasodharā dâng cúng. Đấy là khu vườn rừng Kuṇḍadhāna thuộc thành phố Kuṇḍiyā, không cách kinh đô bao xa. Đức Phật bèn đi viếng thăm nơi này nơi kia, sau đó đến tự viện tăng Kuṇḍadhānārāma.

Khi hai hội chúng tăng ni gặp gỡ, đang thân tình thăm hỏi nhau, thì bên ngoài cổng vườn, một chiếc xe hai ngựa dừng lại, một vị hoàng gia hấp tấp đi vào. Một vị ni cho biết đấy là ông hoàng Mahāli, có vị phu nhân là công nương Suppavāsā mang thai đã suốt bảy năm qua mà chưa sinh. Công nương Suppavāsā lại có tâm tín đạo rất lớn. Hai ông bà đã cúng dường mọi công trình tao nhã ở ni viện.

Thật ra, không cần phải ai thưa trình, đức Phật đã biết tất cả mọi chuyện khi đến Koliya, ngài đã tính đúng giờ phút mà công nương Suppavāsā đang chuyển dạ. Có ai biết rằng, công nương Suppavāsā suốt bảy năm qua đã mang trong lòng mình một thánh thai? Sáu năm trước, trong bụng mẹ, dẫu nằm trong một bình máu, nhưng thai nhi đã không dám động cựa, sợ mẹ đau! Đến năm thứ bảy, nhất là những ngày sau cùng, sự đau đớn khốc liệt xảy ra cho công nương Suppavāsā là chuyện tự nhiên của sinh lý cơ thể lúc sắp sinh. Đến ngày cuối cùng, thai nhi nằm chặn ngang sản môn, bị vướng những sợi dây chằng, lúc thai nhi co duỗi là lúc sản phụ đau đớn khốc liệt. Nhưng do tâm lý, “cái quái thai” bảy năm nên sự đau đớn kia như tăng gấp bội làm cho vị công nương tưởng mình sắp chết. Sáng nay, nghe tin đức Phật và đại chúng đang trì bình khất thực trên các ngã đường Devadaha, công nương Suppavāsā mừng quá, những mong được chiêm ngưỡng đức Phật trước khi mạng chung nên đã hối hả nói với chồng:

– Chàng ơi! Hãy tức khắc đi ngay! Hãy vì thiếp và hãy vì cái quái thai trong bụng thiếp; hãy thỉnh cho kỳ được đức Phật và chư tỳ-khưu tăng ni đại chúng cho thiếp được chiêm bái và bố thí cúng dường lớn trước khi vĩnh biệt cõi đời này!

Người rành rõi chỉ chỗ đức Phật. Tội nghiệp ông hoàng thân trẻ tuổi, thương vợ, với nước mắt, tức tốc, hối hả lên đường.

Thấy dáng dấp hoàng thân Mahāli với bước đi hấp tấp, vội vã cùng với nét sầu não hiện ra nơi sắc mặt, ông chưa kịp đảnh lễ, thưa thỉnh thì đức Phật đã mở lời trấn an:

– Này Mahāli! Không sao đâu! Phu nhân sẽ an toàn và cái thai nhi kia cũng sẽ an toàn! Như Lai sẽ chú nguyện cho! Bây giờ, hoàng thân hãy yên tâm mà ra về đi, đừng lo lắng nữa, đứa trẻ sắp chào đời rồi đấy!

Tin tưởng vào đức Thế Tôn, hoàng thân Mahāli thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Và khi ông vừa rời gót, dùng trí sinh tử, đức Phật biết rõ quả nghiệp chịu đựng đau khổ của mẹ con thai nhi đã chấm dứt nên ngài chú tâm, hướng năng lực tâm đến chỗ sản phụ, đọc lên bài kệ với ý rằng: “Công nương Suppavāsā xứ Koliya được khỏe mạnh và an lành, hạ sanh một hài nhi cũng khỏe mạnh và an lành như thế!”. Câu phúc chúc của đấng Mười Lực vừa chấm dứt thì tại biệt phủ, công nương Suppavāsā sinh hạ một hài nhi nhẹ nhàng như nước trong bình đổ ra. Lý do là do thần lực chú nguyện của đức Thế Tôn tác động vào đúng lúc ác nghiệp(1) đã hết hiệu lực nên gió nghiệp thay vì chướng ngại đã đẩy thai nhi ra ngoài không còn bị vướng víu gì nữa.

Nhìn đứa bé khuôn mặt đẹp đẽ, hồng hào, mũm mĩm như con nhà trời, công nương mừng vui bế trẻ vào lòng với hai hàng lệ tuôn chảy. Cả nhà đổ xô lại. Ai cũng muốn nhìn tận mặt “cái quái thai” bảy năm trong bụng mẹ. Khi thấy trẻ rồi, và vì do phước báu của trẻ mà ai cũng nghe trong lòng thơ thới, mát mẻ, an vui một cách lạ kỳ. Do cảm giác ấy mà mọi người đồng thanh gọi là “Sīvali, Sīvali…” từ đó thành tên.

Hoàng thân Mahāli vừa đến cổng, chưa xuống xe đã nghe không khí vui tươi, nhộn nhịp của cả đại gia đình, ông cảm kích và càng khởi tâm tịnh tín khi biết rõ oai lực vô song của đức Giác Ngộ. Ông hoàng thấy tâm hồn lâng lâng, đi nhanh vào hậu phủ. Một bà vú bế trẻ ra cho ông xem. Ông chiêm ngưỡng con mình như chiêm ngưỡng một tác phẩm kỳ lạ của ông thợ trời. Vào phòng, đặt trẻ trong vòng tay của công nương, sung sướng và hạnh phúc quá làm cho đôi mắt ông cũng đỏ hoe!

Hoàng thân thuật lại lời đức Phật chỉ dạy. Công nương chấp hai tay lên trán, lầm thầm thốt lời tạ ân đức Phật rồi nói:

– Chàng chịu khó trở lại Kuṇḍadhānārāma một lượt nữa, thỉnh mời đức Thế Tôn và tất thảy tăng ni, có đủ năm trăm vị thì càng quý, bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ đặt bát cúng dường bảy ngày, ý chàng thế nào?

– Vâng, vâng! Ông hoàng hối hả gật đầu! Phải vậy! Để tri tạ ân đức Tam Bảo!

Khi ông hoàng Mahāli mở lời thỉnh cầu đức Phật cùng năm trăm tỳ-khưu tăng ni được đặt bát cúng dường tại tư gia trong vòng bảy ngày thì ngài im lặng nhận lời. Rồi đức

Phật hỏi tôn giả Moggallāna:

– Có phải ngày mai, một cận sự nam của ông đã thỉnh Như Lai và đại chúng tỳ-khưu đến thọ thực tại tư gia?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

– Vậy ông hãy nói lại với người thiện nam kia rằng, công nương Suppavāsā, con gái của đức vua Koliya mang thai đã bảy năm, bảy ngày, đã chịu sự đau khổ, thống khổ kịch liệt, nay đã được an toàn, an lạc. Vậy người thiện nam hãy mở rộng tấm lòng nhường phần cúng dường bảy ngày cho vị công nương ấy, sau đó là về phần của ông ta.

Khi tôn giả Moggallāna nói lại với người thiện nam như vậy thì ông ta không vừa lòng, lấy giáo pháp để nói rằng:

– Thưa tôn giả! Nếu ngài bảo đảm cho con ba pháp là tài sản, thọ mạng và niềm tin trong vòng bảy ngày ấy – thì hãy để cho công nương Suppavāsā, con gái của đức vua Koliya tổ chức cúng dường trước rồi hẵng đến phần con sau!

Tôn giả Moggallāna hướng tâm một lát rồi đáp:

– Ta chỉ bảo đảm cho ông hai pháp thôi là tài sản và thọ mạng. Riêng còn niềm tin thì ông tự giữ lấy!

Nghe câu trả lời của tôn giả, người thiện nam vô cùng hoan hỷ, quỳ xuống đảnh lễ ngài rồi nói:

– Con đã khởi tâm ngã mạn khi đưa câu hỏi có vẻ thử thách. Xin tôn giả xá tội lỗi ấy cho con!

– Ừ, ta đã xá tội ấy cho ông rồi!

Thế rồi, việc đặt bát cúng dường bảy ngày tại biệt điện đến đại chúng có đức Phật cầm đầu đã diễn ra hỷ mãn. Và trong thời gian ấy, ai ai cũng chứng kiến chuyện lạ lùng, là trẻ Sīvali lớn nhanh như thổi. Chỉ trong ngày thứ nhất, vừa qua đêm, trẻ đã đổi khác. Qua ngày thứ hai, vừa cách đêm, trẻ đã lớn bằng đứa bé hai tuổi. Và cứ thế, đến ngày thứ bảy thì trẻ đã hao hao giống đứa bé đã bảy tuổi rồi, nhưng cử chỉ, đi đứng, ăn nói thì đã tỏ ra chững chạc hơn trẻ đồng lứa. Trẻ đã nói chuyện với cha mẹ với âm giọng khá rõ ràng, nhưng đặc biệt, trong đó lại toát ra sự hiểu biết không phải của con nít! Cậu lại còn biết xin phép cha mẹ cho được tự tay đặt bát cúng dường một vài thứ vật thực đến đức Phật và chư vị trưởng lão!

Chuyện kỳ lạ này không mấy chốc đã lan nhanh khắp cả thành phố. Không những bà con nội ngoại, thân bằng quyến thuộc tò mò tìm đến thăm viếng mà kẻ lạ, người dưng ngày nào cũng đứng chật sân vườn, cổng ngõ. Trẻ Sīvali tỏ vẻ không được vui, than phiền với mẹ là thiên hạ đến đây ồn ào, huyên náo quá, chẳng yên tịnh được chút nào!

Công nương nhìn cậu quý tử, cứ tròn mắt ngạc nhiên từ chuyện này sang chuyện khác; và bà biết rõ trong tâm, con bà không phải là thường nhân!

Cũng ngày thứ bảy, sau khi nhận đầy đủ vật thực, chư ni trở về ni viện, chư tăng trở về tăng viện, đức Phật bảo tôn giả Sāriputta ở lại thuyết pháp cho cả đại gia đình cùng nghe. Thế rồi, tôn giả thuyết về khổ sanh, khổ của sự tái sanh và sự khổ của vòng trầm luân sinh tử. Trẻ Sīvali lắng nghe rất chăm chú. Cậu rất thấm thía thời pháp. Cậu thấu hiểu một cách rất sâu sắc và cụ thể về sự khổ sanh vì chính cậu đã nằm trong bụng mẹ suốt bảy năm, bảy ngày! Nằm trong bụng mẹ, như nằm trong cái bọc máu, đã nhẫn chịu tối tăm, dơ uế mà mọi động cựa cũng phải cẩn thận vì có thể làm cho bà mẹ bị đau! Mặc dầu bà mẹ rất biết kiêng cữ, nhưng tế bào thần kinh của trẻ rất nhạy. Chỉ một chút cay, chút nóng, chút mặn, chút đắng, chút chua… là cậu như bị tra tấn! Khổ nhất là thời tiết của trời đất thất thường chuyển đổi ở bên ngoài thì bên trong này, trẻ đau đớn cùng cực…

Thời pháp chấm dứt, trẻ Sīvali ăn mặc rất đẹp, bước ra đảnh lễ tôn giả rất mực nghiêm cung và lễ độ. Tôn giả dịu dàng cất tiếng hỏi:

– Mọi việc đều an lành và tốt đẹp cả chứ, này Sīvali?

– Hiện tại, trong không khí phước sự và trong thời gian nghe pháp thì đúng là vậy, thưa tôn giả!

Nghe câu trả lời của trẻ “không đơn giản” chút nào, tôn giả ngạc nhiên, nhăn mày hỏi tiếp:

– Con nói hiện tại? Vậy trước cái hiện tại này thì sao?

Trẻ mỉm cười mà như mếu, rồi đáp:

– Trước cái hiện tại, nghĩa là thời gian suốt bảy năm, bảy ngày con nằm trong một cái bình máu thì an lành và tốt đẹp sao được, thưa tôn giả!

– Đúng là vậy! Tôn giả hoan hỷ nói – Vậy là cái khổ nằm trong bụng mẹ, con là người cảm nhận sâu sắc nhất!

– Không chỉ là cảm nhận. Trẻ Sīvali lắc đầu – con còn kinh sợ nữa, thưa tôn giả!

Qua vài câu đối thoại giữa tôn giả và “hài nhi” mới sanh có bảy ngày đã lôi cuốn sự chú tâm của mọi người. Công nương Suppavāsā hoan hỷ và hãnh diện quá, bà thốt lên:

– Coi kìa! Coi kìa! Con tôi mới có bảy ngày mà đã thảo luận “về sự khổ” với bậc Tướng quân Chánh pháp!

Biết trẻ có căn duyên sâu dày, tôn giả ướm hỏi tiếp:

– Nếu kinh hãi sự khổ thì con phải làm sao, Sīvali?

Trẻ có vẻ suy nghĩ rồi mới trả lời:

– Theo thời pháp của tôn giả, xuất gia mà thấy pháp, chứng pháp, giác ngộ pháp sẽ lần lượt cắt đứt tất thảy sự khổ. Vậy trước sau, con cũng xin được xuất gia thôi!

Tôn giả gật đầu:

– Ừ, thế là đúng! Nhưng bây giờ con còn bé dại quá! Hãy sống ngoan ngoãn, hiếu thảo với cha mẹ, hiếu thuận với mọi người. Khi cơ duyên chín muồi, tự đích thân ta sẽ tìm đến con đấy! Nhớ lời hứa đó nhé?

– Dạ xin vâng!

Quay qua đại gia đình rồi nhìn công nương Suppavāsā, tôn giả hỏi:

– Có một trẻ như vậy, thế gian hiếm có! Này công nương hữu phúc! Công nương có còn muốn những bé trai tương tợ như vậy nữa hay không?

Rạng rỡ khuôn mặt, công nương mau mắn đáp:

– Muốn, rất muốn! Nếu có đau khổ bảy lần, được bảy bé trai như thế, đệ tử cũng muốn như thường!

Câu chuyện của trẻ Sīvali, không mấy chốc đã trở thành câu chuyện nóng sốt được bàn tán khắp mọi nơi. Không những tại các tăng, ni viện mà tại cung đình, hoàng gia, quý tộc, các đạo tràng ngoại giáo, đường phố, công viên, chợ búa… ai cũng muốn chiêm ngưỡng trẻ hoặc suy luận về căn cơ, nghiệp từ kiếp trước. Có một số vị tỳ-khưu đem chuyện kể về trẻ Sīvali ở Koliya này, và trẻ Dabba-Mallaputta vừa mới xảy ra ở khu rừng Ampiyamba gần thành Anupiya xem như đều là những việc hiếm có trên đời. Nói chung, họ cứ thắc mắc, thắc mắc mãi là cả hai mẹ con bị cái nghiệp gì kinh khiếp mà cùng chịu đau khổ chung suốt bảy năm, bảy ngày như thế?

Tôn giả Moggallāna thấy tiết lộ điều này, tức là nhân của nghiệp quá khứ, chư tăng sẽ hiểu thêm về sức mạnh của nghiệp báo, lợi ích cho việc tu tập của họ – nên đã không ngần ngại kể cho đại chúng nghe rằng:

“ Trong một kiếp quá khứ, tiền thân Sīvali là một vị thái tử con vua Brahmadatta, kinh thành Bārāṇasī. Thái tử tinh thông các môn học nghệ, đức độ và tài giỏi nên được vua cha chuẩn bị nhường ngôi.

Đức vua xứ Kosala sẵn binh lực hùng hậu, có dã tâm xâm lược, thấy nước lân bang trù phú, giàu có nên đã khởi một đạo quân lớn, đột ngột tấn công Bārāṇasī, giết đức vua Brahmadatta, lấy hoàng hậu vua làm vợ mình. May mắn thay, lúc ấy thái tử đang ở ngoại thành, đang cùng với toán quân vệ sĩ đang đi tuần thú các nơi nên thoát khỏi nạn.
Thấy nước mất, nhà tan, thái tử rất căm hận nên đã tụ họp bên mình những chiến sĩ gan dạ, yêu nước rồi âm thầm đi khắp các trấn thành, thị trấn… kêu gọi đoàn kết, phất cờ khởi nghĩa vệ quốc.

Hôm kia, một đoàn đại quân đằng đằng sát khí, có thủ lãnh là vị thái tử anh hùng, thao lược bao vây Bārāṇasī rồi bắn vào thành một trăm mũi tên viết bằng máu: “Một là giao thành, hai là giao chiến, ba là các ngươi hãy tự sát!”

Đức vua Kosala và quân đội đang hưởng lạc, say men chiến thắng, nhận được tối hậu thư, mỉm cười khinh bỉ: “Thằng trẻ ranh dám hù dọa ta sao?”, bèn cho bắn tên trả lời:

“Một tuần nữa, ta sẽ chặt đầu ngươi ở dưới chân thành, cho chó ăn! ” Tức giận đến máu trào, thái tử tức tốc cho tấn công, không đợi chờ nữa. Nhưng cả ba lần tấn công dũng mãnh, đầy quyết tâm đều bị đẩy lui do binh lực của chúng còn rất mạnh.

Trong thành, bà hoàng hậu hay tin, nhờ cảm tử quân ban đêm vượt thành, đưa tin cho thái tử hay: “Quân đội của chúng chưa tổn hao, nhưng lương thực trong thành đã gần cạn. Vậy, không nên đánh thành mà chỉ nên bao vây, cắt đứt các ngả đường tiếp tế. Chỉ cho đến khi nào củi, nước, gạo trong thành khánh kiệt, không cần đánh mà chúng ta vẫn thắng! ”

Nghe lời mẹ, thái tử cho các tướng dẫn quân bao vây, bít chặt mọi lối ra, vào; những ngõ ngách bò, dê, heo, chó gì cũng bịt kín hết thảy. Thế là đến ngày thứ bảy, dân chúng trong thành do đói khát nên chết rất nhiều. Một số còn đủ sức, họ mang gươm giáo nổi loạn. Quân đội của vua Kosala cũng chết do đói khát, số còn lại thì vật vờ, yếu lả nên không còn đủ sức kháng cự. Dân chúng tràn vào vương cung, chặt đầu vua rồi tự động đem giao nộp cho thái tử. Chàng hiên ngang vào thành, lấy lại vương quốc, mẹ con trùng phùng… Mạng chung, họ đi theo nghiệp của mình”.

Kể xong chuyện quá khứ, tôn giả kết luận:

– Do nhân gieo vây hãm thành bảy ngày làm cho rất nhiều người chết; sau khi bị trả quả khổ ở địa ngục, nghiệp còn dư sót, mẹ mang thai con bảy năm, bảy ngày chịu khổ với nhau để trả cho hết nghiệp xưa! Công nương Suppavāsā bây giờ là hoàng hậu thuở trước, thái tử Bārāṇasī vây thành chính là trẻ Sīvali vậy.

– Trời đất ơi! Một người cất tiếng than! Cái nhân bảy ngày vây hãm thành, cái quả trả dư sót lại lên đến bảy năm, bảy ngày! Xem nào! Một năm vị chi số ngày như thế, chia cho bảy như thế, vị chi gấp năm mươi hai lần cộng thêm bảy ngày! Ôi! khiếp thay cái nghiệp báo, năm mươi ba lần hơn là cái sự khổ phải chịu!
Có tiếng cười. Rồi có người còn thắc mắc, hỏi:

– Trẻ Sīvali rất thông minh, sáng dạ; không những nắm bắt cái “khổ sanh” trong thời pháp, mà còn thảo luận với bậc Tướng quân Chánh pháp vài câu nghe rất có chiều sâu. Như thế, hẳn trẻ phải có căn cơ giáo pháp sâu dày nào từ quá khứ, phải thế không, thưa tôn giả?

Tôn giả gật đầu:

– Ừ, đúng vậy! Sẽ còn có lắm điều kỳ diệu về trẻ Sīvali này. Nhưng phải đợi đến khi cậu bé xuất gia, cái căn cơ cũ ấy mới trọn vẹn mãn khai! Hãy đợi đấy mà xem!

Sự việc sau đó xảy ra đúng y như vậy. Do Sīvali cứ nằng nặc đòi xuất gia ngay nên gia đình bèn cầu khẩn tôn giả Sāriputta cho trẻ được như ý nguyện. Khi làn dao cạo tóc của tôn giả vừa đi xong một đường, cậu bé đã đắc quả Tu-đà-hoàn, đường dao thứ hai thì đắc quả Tư-đà-hàm, đường dao thứ ba thì đắc quả A-na-hàm; và sau khi cạo đầu xong thì Sīvali đã đắc quả A-la-hán cùng các thắng trí.

Ngay khi ấy, rất nhiều cận sự nam, cận sự nữ ăn mặc quý phái, xa hoa không biết từ đâu tìm đến cúng dường quá nhiều vật dụng; vị thánh tí hon bèn thưa với tôn giả Sāriputta rồi san sẻ hết cho tăng chúng. Nghe chuyện có quá nhiều cư dân xa lạ, sang trọng, không phải là người trong vùng đến cúng dường trong ngày Sīvali đắc quả – Đức Phật xác định đấy là chư thiên và thọ thần hóa thân; và trẻ Sīvali còn là người “đệ nhất về tài lộc” trong tăng chúng, đặc biệt là về vật thực!

Vậy là nguyên nhân đắc quả dễ dàng khi còn là hài nhi và “đệ nhất về tài lộc”; tất cả đấy chắc hẳn đều có nhân duyên từ quá khứ. Biết sự thắc mắc của đại chúng và cả nhân dân trong kinh thành, đức Phật bèn kể lại chuyện xưa, xưa cả hằng trăm kiếp quả địa cầu.

“Vào thời đức Phật Padumuttara, tiền thân đức Sīvali là một vị vương tử trong kinh thành Haṃsavatī thường hay đi nghe pháp và cúng dường tứ sự cho tăng chúng. Hôm kia, thấy đức Phật tuyên dương một vị tỳ-khưu tên là Sudassana là “bậc tối thắng đệ nhất về tài lộc và vật thực” nên vương tử hoan hỷ quá. Sau khi tìm hiểu, biết đâu nhân đâu quả, vương tử phát tâm đặt bát cúng dường đến đức Phật và đại chúng suốt bảy ngày rồi phát nguyện: Do sự cúng dường thanh tịnh này, đệ tử ước nguyện đạt được ‘địa vị thù thắng về tài lộc và vật thực’ y như tôn giả Sudassana vậy!

Đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara xòe bàn tay búp sen, phóng năm tia hào quang sáng trắng bao phủ đỉnh đầu vị vương tử rồi nói rằng: Sau trăm ngàn trái đất thành, trụ, hoại, không kể từ hiện kiếp, ước nguyện của thiện gia nam tử sẽ trở thành hiện thực vào thời đức Chánh Đẳng Giác Sākya Gotama!

Sau đó, vào thời Phật Atthadassī, tiền thân của Sīvali là đức vua Varuṇa, khi đức Phật Nhập diệt, ông thường đến cúng dường cội cây Bồ Đề rất trọng thể. Và khi ông mất, cũng nằm dưới cội Bồ Đề này.

Và kể từ đó, ông không bào giờ rơi vào cảnh giới tứ ác đạo, thường luân chuyển hưởng phước báu trời, người, và đặc biệt rất nhiều kiếp làm Chuyển luân Thánh vương.

Vào thời đức Phật Vipassī, tiền thân Sīvali là một nông dân ở ngoại thành Bandhumatī. Thuở ấy, đức Chánh Đẳng Giác cùng với đại chúng sáu mươi tám ngàn vị tỳ-khưu đang dừng chân hoằng hóa trong kinh đô Bandhumatī. Đức vua Bandhuma vốn là thân phụ của Đại Bồ Tát Vipassī thuở tại gia, nghe triều thần báo tin vậy nên rất hoan hỷ. Tức tốc, đức vua cho thông báo rộng rãi đến muôn dân, là hãy đến cung điện để chứng kiến đại lễ cúng dường của đức vua và hoàng gia đến đức Chánh Đẳng Giác.

Đến ngày, dân chúng đủ mọi thành phần, giai cấp kéo nhau vào chật cung điện; và họ đã tận mắt chứng kiến cuộc cúng dường trọng thể khó diễn tả thành lời. Không kể những món ăn sơn hào hải vị, thượng vị cứng mềm đặt vào bát của đức Phật và đại chúng… mà còn nào là chỗ ngồi, lọng, hoa, hương, chậu ngọc, chậu vàng rửa tay, rửa chân… thật là trân quý hết chỗ nói.

Một số chư vị đại gia, doanh gia, kỳ lão, trưởng gia chủ hữu danh… bàn với nhau rằng:

– Đức vua và hoàng gia là ai kia chứ? Tất cả mọi vật dụng, sản phẩm, tiền bạc, ngọc vàng gì gì đó… là nhờ chúng ta đóng thuế mà có. Họ có được buổi cúng dường sang trọng, trọng hậu như thế là nhờ chúng ta, có phải không nào?

– Đúng vậy!

– Vậy sao chúng ta không đồng tâm, đồng lòng, chung bạc vàng, chung của cải, chung vật thực… để tổ chức một buổi cúng dường trọng thể, vĩ đại hơn đức vua và hoàng gia?

Thế là mọi người nhất trí. Tức tốc, một số các vị kỳ lão đến cung thỉnh đức Phật, được ngài im lặng nhận lời, sau đó, họ vào cung mời đức vua và hoàng gia đến tại nhà hội lớn của thành phố, chứng kiến cuộc đặt bát cúng dường của nhân dân đến đức Phật và đại chúng, ngay ngày mai!

Dĩ nhiên là buổi cúng dường của nhân dân sau đó, rõ là hơn cả đức vua và hoàng gia. Đức vua tận mắt chứng kiến cuộc cúng dường vô cùng hoành tráng, nghĩ rằng, mình là đấng quân vương chí tôn, lẽ nào lại để thua thần dân của mình? Thế rồi, đức vua và hoàng gia mời dân chúng chứng kiến buổi cúng dường ngày hôm sau… Và cứ thế, hai bên thi đua nhau, và hôm sau bao giờ cũng hơn hôm trước. Đến khi đức vua cúng dường đã bảy ngày còn nhân dân thì mới sáu ngày… các vị tôn túc lại họp bàn nhau, đi đến kết luận:

– Chúng ta thấy đức vua và hoàng gia đã sức cùng, lực kiệt rồi, kho lẫm gì gì chắc cũng đã cạn ráo cả rồi, còn chúng ta thì chẳng có thâm hụt bao nhiêu đâu? Vậy lần này, chúng ta phải quyết thắng, mỗi người hãy nới rộng tay một chút nữa là đức vua và hoàng gia sẽ đầu hàng! Họ không còn theo kịp nữa đâu.

Khi cùng bắt tay khởi sự, ban tổ chức quyết định rằng:

– Quan trọng nhất là vật thực, phải có đủ mọi món trân quý trên đời. Chúng ta đừng để đức vua và hoàng gia cười khinh là còn thiếu món này, còn thiếu món nọ!

Sáng hôm ấy, sau khi kiểm soát lại lần cuối trước khi đi thưa thỉnh đức Phật và đại chúng, một vị tôn túc phát giác là còn thiếu món “sữa đông tươi và mật ong tươi!”

Người chủ nhóm trai soạn thành thật thưa rằng: Hai món ấy mấy ngày hôm nay đã bị vét sạch khắp các chợ búa, khắp các gian hàng thực phẩm rồi!

Một chủ trại bò đang cho gia nhân đẩy một chiếc xe kéo tay từ ngoài vào, nghe được câu chuyện, nói to lên rằng:

– Sữa đông tươi! Đây là cả một chiếc xe sữa đông tươi, tôi vừa cho ủ mấy ngày hôm nay đó – khi thấy thành phố đã khan hiếm!

Ban tổ chức rất vui mừng. Nhưng còn mật ong tươi?

Người trưởng nhóm trai soạn suy nghĩ một lát, rồi trích quỹ bốn ngàn đồng tiền vàng trao cho bốn người bên cạnh rồi nói:

– Mỗi người hãy chịu khó đi ngay tức khắc ra bốn cổng thành Đông, Tây, Nam, Bắc – đón lõng những người nông dân buổi sớm mang mật ong vào thành phố. Đắt bao nhiêu cũng mua! Đi ngay!

Cũng sớm hôm ấy, tiền thân Sīvali là người nông dân – như đã kể ở trên – muốn vào thành phố thăm một “ông chủ”, nghĩ mình đi tay không cũng kỳ nên ghé qua khu rừng tìm được một tổ mật ong.

Tại cổng thành, người đón mua mật ong thấy tay người nông dân đang cầm một tổ mật ong, mừng quá đến gạ hỏi xin mua:

– Này ông bạn! Hãy bán tổ mật ong ấy cho tôi!

– Không, tôi không bán. Đây là món quà tôi mang biếu tặng người.

– Tôi mua với giá cao mà! Tôi trả cho ông bạn một đồng tiền vàng, cơ đấy!

Người nông dân suy nghĩ: “Tổ mật ong này chỉ đáng giá vài xu (vài māsaka) là quá lắm. Ông này lại trả đến một đồng tiền vàng! Vậy, hoặc là ông ta điên, mất trí hoặc ông ta là kẻ lắm tiền nhiều của! Ta cứ xem sao!” Rồi trả lời:

– Một đồng vàng ư? To lắm đấy! Nhưng tôi không bán được đâu!

– Thế thì tôi trả 2 đồng vàng vậy!

Người nông dân cười thầm trong bụng, nghĩ rằng, xem thử cái trò chơi này sẽ đi đến đâu, bèn lắc đầu không bán. Thế rồi, cuộc mặc cả cứ tăng dần lên, đến con số 1000 thì người mua mật ong buồn bã nói:

– Tôi trả đến một ngàn đồng tiền vàng là con số cuối cùng, nếu ông bạn không bán thì tôi đành chịu. Đây, một ngàn đồng tiền vàng tươi roi rói, vàng choe chóe đây!

Nói xong, người mua mật ong lấy túi vải bên lưng, đổ 1000 đồng tiền vàng cho người nông dân trông thấy.

Lạ lùng làm sao, người nông dân vẫn không động tâm, thủng thỉnh nói:

– Có lẽ ông là người điên hoặc là kẻ có quá nhiều kim ngân không biết đổ đâu cho hết mới đem ra vung vãi như thế. Tổ mật ong này chỉ đáng giá vài xu māsaka mà ông đòi mua cả 1000 đồng tiền vàng, thử hỏi không mất trí là gì!

Đến lúc này thì người mua mật ong mới nói thật:

– Vì cái tổ mật ong kia, bây giờ đối với tôi, nó cần thiết và quan trọng quá…

Rồi người mua mật ong bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện, Kể về sự xuất hiện của đức Phật và đại chúng tỳ-khưu tại kinh thành Bandhumatī; và phước báu vô lượng cho những ai thành tâm cúng dường tứ sự cho đức Chánh Đẳng Giác và giáo hội tăng đoàn. Hiện tại, giữa đức vua, hoàng gia và nhân dân kinh thành đang nỗ lực tranh nhau sự cúng dường ấy, không ai chịu thua ai như thế nào!

Người nông dân cau mày, suy nghĩ: “Được dịp tạo phước lớn như thế này thì ta không nên bỏ qua. Nếu ta nhận 1000 đồng tiền vàng thì chỉ được hưởng giàu sang trong một kiếp sống phù du thôi. Sao ta không biết đầu tư hạnh phúc và an lạc cho nhiều đời kiếp?” Rồi ông nói:

– Vậy thì ông hãy cho tôi được hùn phước tổ mật ong này trong cuộc lễ đại thí, đại cúng dường ấy!

Được dẫn tới gặp ban tổ chức, người nông dân vẫn khư khư giữ vững quan điểm của mình, cuối cùng, họ phải đồng ý cho người nông dân hùn phước.

Sau khi đức Phật Vipassī và đại chúng tỳ-khưu thọ thực xong; tổ mật ong của người nông dân được trộn hòa với sữa đông tươi được dâng cúng như món tráng miệng… thì vừa đủ cho đức Chánh Đẳng Giác và 68 ngàn vị, không thừa, không thiếu…

Vậy là do nhân phát nguyện dưới chân đức Phật Padumuttara cùng sự cúng dường tổ mật ong này mà sau này, sa-di Sīvali thành tựu được hạnh “tối thắng về tài lộc và vật thực” trong giáo hội của đức Tôn Sư.

Sau này, trong những tháng ngày vân du hành hóa, dù đi qua những xóm làng mất mùa đói kém, những ai đi khất thực chung với Sīvali đều nhận được vật thực đầy đủ. Cho chí những vùng miền không có xóm làng, cư dân thì chư thiên, thọ thần, long vương lại hiện thành thân người, và họ là thí chủ của Sīvali. Trường hợp tại “Khu rừng xiêm gai” cũng thế, sa-di Sīvali lại bảo họ dâng cúng đến đức Thế Tôn và tăng chúng. Suốt ba mươi do-tuần, đức Ðạo Sư và đại chúng được nghỉ ngơi và thọ dụng vật thực kỳ lạ như vậy.
Cũng một lần khác, khi trưởng lão Sīvali cùng 500 vị tỳ-khưu du hành lên Himalaya thì chư thiên cũng hóa hiện thôn xóm, tự viện rồi cúng dường vật thực đầy đủ đến cho ngài và đại chúng. Cho chí khi đến vùng Gandhamādana (Hương Sơn), nơi hoang vu hẻo lánh nhất, ngài và đại chúng cũng được thiên tử Nāgadatta cúng dường cháo sữa và bơ đặc trọn bảy ngày như thế.

Hiện nay, Phật tử trong các nước Phật giáo Nam truyền, nhất là Thái Lan thường thờ tượng hoặc xá lợi của đức Sīvali như một biểu tượng may mắn, đem đến an vui, thuận lợi và cả tài lộc cho gia chủ nữa.

 

(Trích: Trưởng lão Sa-di)

 

 

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH