Trang Thơ Huynh Đệ (1976 – 2016)

30/11/2016 | Chuyên mục: THƠ . 10270 Lượt xem

trangtho

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trân Tặng ĐẠI HUYNH
(Ngài Viên Minh – Viện chủ Tổ đình Bửu Long)

1. Thắp Thơ Trừ Tịch

Bút chuyển tình xuân chở đạo vàng
Nửa đêm trừ tịch nhớ mang mang
Chân trời, huynh rải lòng vô nhiễm
Góc biển, đệ nuôi lửa hữu hằng
Đại nguyện, khiến hiền nhân xuống núi
Tiểu tâm, xui ác hữu chuồn hang
Dù cho nắng quái đùn phương trượng
Cổ thụ che chung vẫn một tàn!

(HK – Lăng Cô, 1976)

 

2. Đại Cổ Tùng

Dáng đứng uy nghi vút tận trời
Bạn cùng thanh khí, gió trăng thôi!
Bão cuồng, quạt mát thân ngàn trượng
Nắng quái, hong xanh lá vạn đời
Duyên ngoại, tòng duyên, phi trạch xử
Nghiệp trung, trạch nghiệp, bất tòng thời
Hoàng mai, hai nhánh vàng phương sử
Một gốc tùng sao mãi nở chồi?

(HK- Nham Biều, 1979)

 

3. Tròn Sáng

Hạo hạo cao phong, đứng một mình
Vầng trăng tròn sáng, đóa viên minh
Chấm sơn, điểm thủy, thiền đôi nét
Phẩy hạc, lăng vân, đạo bấy tình
Cát tía, thơ rơi, thơm cảo lục
Bụi hường, sách đốt, sáng tân kinh
Bách tùng dựng núi, xanh muôn núi
Chẳng nọa phù sinh, lướt diệu sinh!

(HK- Nham Biều, 2002)

 

4. Gốc Lão Tùng
(Mừng Đại huynh sinh nhật lục tuần)

Ngạo nghễ cao xanh, mặc gió sương
Càng thâm niên tuế, sắc an thường
Tình chia Nam Bắc, tàn vươn nhánh
Khí rợp càn khôn, nhựa tỏa hương
Họa hứng, mây bay, thiền ẩn bút
Thơ vui, trăng tỏ, chữ ngời chương
Xuân thu, tịch mặc, chơi non đá!
Vi tiếu, hạo nhiên ngắm mộng trường!

 

5. Mừng Khánh Nhật
(73 tuổi và 50 hạ lạp – ngày 04/2 Bính Thân của ngài Viên Minh – Sơ tổ Huyền Không)

Phủi bụi phồn hoa, chốn thị phường
Về nơi non lặng, nhẹ mù sương
Sau lưng dựa núi, mây cao lĩnh
Trước mặt vỗ bờ, sóng đại dương
Cọp trắng, đá chầu, xây cảnh sách
Rồng xanh, suối lượn, chở kinh chương
Cỏ cây u nhã, nhen tri kỷ
Trăng nước tiêu dao, duỗi mộng trường
Đạm bạc, thanh bần, vươn duệ trí
Nghiêm dung, dị giản, toả đàn hương
Thân mai, rắn rỏi, dầm mưa nắng
Vóc hạc, khô gầy, vỡ rẫy nương
Lui tới, lục hoà, vun đạo hạnh
Vào ra, tứ nhiếp, gánh yêu thương
Vén rừng tham giận, nhìn chân thật
Mở ngục phiền lao, thấy tỏ tường
Thần khí, an như, chơi bốn biển
Ngôn hành, tự tại, dạo mười phương
Lợi danh, trước ngõ, trăng rơi đốm
Phải trái, đầu cây, lá rụng vườn
Mù mịt kiến tri, soi ngọn đuốc
Tối tăm ái chấp, rọi con đường
Trí tài siêu việt, tâm dâng hiến
Thiền pháp bình nhiên, tuệ cúng dường
Chi ngại gai đâm, chân đại trượng
Nào hay lửa hực, áo thanh lương
Ngẫm trò được mất, cười hư thực
Ngắm cuộc đầy vơi, mỉm nhược cường
Xả kỷ, bỏ nhân, không đối sánh
Vị tha, buông ngã, chẳng so lường
Nước trong, hạc nội, nào lưu luyến?
Cội cũ, chim ngàn, nhẽ vấn vương?
Đại dụng, càn khôn, thơm cội đức
Quyền cơ, nhật nguyệt, sáng đài gương
Ra tay lập địa, vô vi hạnh
Huyền mấy cõi Không, “chẳng thị thường!”

 

Tặng NHỊ ĐỆ
(Sư Pháp Tông – chùa Huyền Không)

1. Chào Bay Thước
(Lúc đang xây dựng chùa HK, Xuân 1994)

Chữ, số loay hoay suốt mãn niên
Xi măng, sắt, ngói… tỉnh giấc thiền!
Hoa văn xương kính, mòn tay bút
Điêu họa đan thanh, méo mặt tiền
Tùng bách nắng mưa, thân rắn lõi
Trúc mai sương tuyết, sắc thâm duyên
Vui xuân, thôi nhé, chào bay thước
Chuẩn bị trà xanh tiếp thiện hiền!

 

2. Trăm Hạc Trắng
(Công đức kiến tạo chùa Huyền Không)

Ra tay kiến tạo cõi cao thanh
Công đức ngàn xưa, quả tự thành
Phật điện mây lồng, trăm hạc trắng
Bảo đài hương tụ, vạn tình xanh
Hay chăng trí giả vun căn cội
Có phải hiền nhân điểm nhánh cành
Cõi chợ, bụi hồng xao tục lụy
Phước tâm lan tỏa khí an lành!

An lành Phật nhật, nắng triêu dương
Tăng chúng an tri, liễu đạo thường
Thơ hứng, uyên thâm lời đạm thủy
Trà đàm, giản dị vị thanh lương
U nhàn, phẩy bút, xua mê vọng
Thanh thản, lật trang, tả hí trường
Vô ngại được thua, vô ngại sự
Hương thơm nhè nhẹ tỏa ngàn phương

Ngàn phương mát mẻ bóng thiền quang
Phơi phới xuân tâm, kết đạo tràng
Tín nữ cúng dường, hoa thượng giới
Thiện nam tô điểm, ngọc nhân gian
Chuông chiều lấp lánh, xua trần lụy
Kinh sớm lung linh, gõ mộng tàn
Phật sát, nguyên sơ, miền tuệ giác
Huyền Không trăng chiếu cõi thênh thang!

(HK- Nham Biều, 1995)

 

3. Phương Trượng

Bao năm trụ trì tóc bạc
Trượng tùng, cỗi trúc, lão mai!
Trà bánh mấy chung tuế tóa
Cơm rau vài bát lai rai
Hán ngữ, Phạn, Anh… nhiều tạng
Trung văn, thơ, truyện… lắm tài
Phật sự trong ngoài bề bộn
Thanh nhàn gẫm chẳng thua ai!

 

4. Tát Trần Khơi
(Công đức mở Học viện)

Trên cát, bài thơ cứ viết hoài
Sa-môn đại trượng, tát trần khơi
Trí cao, tâm thượng, tàn xanh lá
Phước quý, lộc sung, gốc biếc chồi
Thanh tĩnh thưởng trà, hương cảo lục
Vô vi chuyển pháp, đức tinh khôi
Hạo nhiên đá sỏi, gầy mai tuyết
Phụng hiến nhân gian đóa vạn đời!

 

Tặng TAM ĐỆ
(Sư Tuệ Tâm – chùa Pháp Luân và Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa)

1. Pháp Luân – Tuệ Tĩnh

Sơn hạ Huyền Không – Tuệ Tĩnh đường
Bao la nguồn khổ, tỏa tình thương
Lương y nguyện lớn, non khôn sánh
Từ mẫu ân sâu, biển khó lường
Đòi đoạn tử sinh, đau hữu hạn
Đa đoan lão bệnh, cảm vô thường
Noi tâm thánh đức, giương cao đuốc
Tận tụy giúp đời, hiến dược phương!

 

2. Bồ-tát Chợ Triền

Giống sao ông Phật Di Lặc
Mở mắt thấy nụ cười duyên
Phòng đầy, kinh thư chữ nghĩa
Bụng no, phương dược thánh hiền
Lúc nào nghiên đề, giảng khóa?
Khi mô vận khí, tọa thiền?
Ngày ngày việc làm không ngớt
Đêm đêm bệnh réo đi liền
Báo chí, sách, tin – đủ cả
Y chang bồ-tát chợ triền!

 

3. Dốc Tịnh Bình

Mừng đệ khói sương thỏa chí mình
Tay chèo, tay chống lướt phù sinh
Chợ chiều, thắm đượm hoa nhân ái
Cõi bụi, xanh mơn đóa đạo tình
Đức tỏa tùng hương, trăng cổ tích
Tâm ngời bối diệp, đuốc tân kinh
Liên Hoa, Tuệ Tĩnh – miền Cam Lộ
Thấy chúng sanh đau, dốc tịnh bình!

 

4. Nhất Đóa Xuân

Xuống núi gậy thiền đã mấy Xuân?
Sắc không hóa ngọc, biếc vô ngần
Qua sông đò nặng, bền cao chí
Gánh nghiệp đời đau, vững đạo tâm
Biển bạc mênh mông, thuyền bát-nhã
Lòng son bát ngát, áng từ vân
Lãn Ông, Tuệ Tĩnh, tình quy Phật
Muôn thuở nụ cười, nhất đóa Xuân!

 

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH