Một cuộc đời một ngôi sao

17/09/2012 | Chuyên mục: SÁCH . 58679 Lượt xem

VỚI CHÚNG SA-DI

 
 

K

ỳ Viên tịnh xá lúc này đã đến năm ngàn thầy tỳ-khưu. Tất cả mọi liêu thất đã chật chỗ. Các vị đại trưởng lão và môn đệ đều phải tuần tự thay nhau tản mác quanh các khu rừng và làng mạc kế cận, vừa giảm được nhân số vừa gần gũi đức Thế Tôn để hằng ngày thính pháp.

Riêng hai vị thượng thủ thì rất bận rộn công việc. Vừa thay mặt đức Ðạo Sư thuyết pháp, vừa giải quyết vấn đề tăng sự đây đó, vừa cắt đặt các công việc trong ngoài liên quan đến giáo hội, cận sự nam nữ. Chuyện thường xuyên bức xúc nhất là trật tự, kỷ cương trong đời sống, sinh hoạt tịnh xá. Dẫu quan tâm bao nhiêu vẫn không tránh khỏi những đáng tiếc xảy ra, giữa một tập thể mà sự ràng buộc với nhau chỉ có tình thương và tinh thần kỷ luật tự giác!

Tăng chúng quá đông, thế là phượng hoàng ở lẫn với gà, ngọc vàng lẫn lộn giữa bụi cát. Cả hàng ngàn tỳ-khưu và sa-di còn quá nhiều phàm tính, chưa được thuần thục trong giáo pháp, chính họ là thủ phạm làm xáo trộn nếp sống yên ả, thanh bình. Có nhiều nhóm đôi khi vì một gốc cây, một chỗ nghỉ mà sinh ra tranh giành, ẩu đả, chửi mắng nhau. Nhiều vị do ích kỷ, biếng nhác, ăn và chơi, không chịu sờ mó công việc, không chịu tu tập mà chỉ mong chiếm tiện nghi, thủ lợi riêng cho mình, ai sống chết mặc ai! Có rất nhiều vị thánh tăng khiêm tốn, vô tranh, từ hòa đã phải lặng lẽ bỏ vào rừng sâu…

Ngay ở đây, tại bệnh xá trung tâm này mà vẫn còn nhiều thầy tỳ-khưu khai láo bệnh để được ăn vật thực của người bệnh; thu giấu sữa, mật ong, tích trữ thuốc… Nhiều thầy tỳ-khưu hiền lành, khiêm tốn, ít nói, thiếu thốn mọi thứ mà chẳng ai biết để san sẻ. Ðã có trường hợp đáng tiếc là một thầy tỳ-khưu bị bệnh mụn nhọt, lở loét, hôi hám, dơ dáy đã bị ai đó quẳng vào bìa rừng một đêm. Sáng ngày, chính đức Ðạo Sư đã sai mang vào phòng giữ lửa, chính ngài đích thân nấu nước sôi, tẩm khăn ấm lau sạch thân thể cho người bệnh. Sai người giặc y ngoại phơi khô, lấy y ngoại đắp, giặt y nội phơi khô… Vị tỳ-khưu bất hạnh này cuối cùng lại được diễm phúc: Ðức Thế Tôn đã thuyết một thời Pháp, vị ấy đắc quả A La Hán và Niết Bàn ngay tại chỗ.

Những sơ sót ấy là do hai vị đại đệ tử đi vắng và các vị đại trưởng lão bận Phật sự ở bên ngoài. Người có khả năng nắm rõ tất cả mọi tình hình, tình huống trong tịnh xá Kỳ Viên là sa-di La Hầu La (Rāhula), con trai yêu quý của đức Thế Tôn. La Hầu La có đời sống kỷ luật tự giác, nghiêm túc nhất mà tôn giả Xá Lợi Phất được biết. Ngoại trừ những lúc đi vào làng, vào thành phố, vào rừng để trì bình khất thực và thiền định, còn những khi ở tịnh xá, La Hầu La là cánh tay phải đắc lực nhất cho tôn giả.

Ðức Tôn Sư bảo tôn giả Xá Lợi Phất làm lễ xuất gia sa-di cho La Hầu La (Rāhula) lúc bảy tuổi. Từ bấy đến nay, La Hầu La được mọi người kính trọng, yêu mến vì hạnh kiểm, vì tư cách cùng những phẩm chất cao quý khác. Sa-di La Hầu La học hành rất quyết tâm, thiền định rất tinh tấn, chăm lo mọi việc trong tịnh xá rất chu đáo, rất quán xuyến; và đặc biệt, chưa bao giờ chú ỷ thế mình là con Phật!

Thời gian đầu, nhiều vị tỳ-khưu muốn thử La Hầu La bằng cách quăng rác, xả rác bừa bộn chỗ nào La Hầu La đi qua rồi đổ lỗi cho chú. Không nói không rằng, lặng lẽ mười lần như một, La Hầu La đều thu dọn, quét tước sạch sẽ. Từ đấy họ kính trọng La Hầu La và không dám làm thế nữa.

 

Sáng hôm ấy, tôn giả Xá Lợi Phất bị cảm nhẹ, tuy thế, sửa lại y áo, ngài định bước đi thì La Hầu La cũng vừa tới.

La Hầu La cung kính đảnh lễ. Tôn giả thân ái nắm tay chú bước vào phòng.

– Bạch thầy! Thầy có được khỏe không?

– Dường như ta bị cảm nhẹ.

– Tay thầy nóng, có lẽ bị sốt đấy.

– Nó chỉ như gió thoảng, không sao đâu.

Thấy La Hầu La cứ chấp tay, ngần ngừ. Ngài hỏi:

– Con có gì cứ trình bày, đừng ngại!

– Bạch thầy! Con đã không quán niệm hơi thở theo lời thầy dạy mà con đã quán niệm sự vận hành vô ngã của ngũ uẩn!

– Chắc có lý do chính đáng chứ?

– Thưa vâng! Hôm đó con đi khất thực theo chân đức Thế Tôn, ở sau, con chiêm ngưỡng ngài và ý nghĩ sau đây phát sinh: Cha ta, đức Thế Tôn, có phong độ oai nghiêm đáng quý trọng xiết bao! Coi kìa! Dáng dấp của ngài như thớt tượng chúa uy nghi, đĩnh đạc; như một chúa thiên nga bơi lội trên mặt hồ cung điện cõi trời! Cha ta, đức Thế Tôn, thuộc dòng dõi quý tộc, vương giả cao sang, từ ngai vàng, điện ngọc mà bước ra! Ôi! Cha ta, đức Thế Tôn, có thân hình đẹp đẽ, thế gian này không ai bằng được! Nghĩ thế xong, ngắm lại mình, con cũng hãnh diện vô cùng: Ta cũng đẹp đẽ như đức Thế Tôn, cha ta. Thân hình đức Thế Tôn đẹp đẽ và thân hình ta cũng vậy.

La Hầu La nói tiếp:

– Bạch thầy! Ðức Thế Tôn đọc được ý nghĩ trong tâm của con nên ngài dạy: Này La Hầu La! Bất luận thân hình đẹp đẽ hay xấu xa, cũng phải được quán xét như vầy: Cái này không phải là ta, cái này không phải của ta, cái này không phải là tự ngã của ta!

Lúc ấy con hỏi:

– Bạch đức Thế Tôn! Chỉ có hình thể này, sắc thân này được quán xét như vậy hay còn cái gì khác nữa?

Ðức Thế Tôn đáp:

– Không những sắc, mà thọ, tưởng, hành, thức cũng đều phải được quán xét như vậy.

 Con liền nghĩ: “Ai có thể, hôm nay, được đức Ðạo Sư trực tiếp giảng dạy như vậy mà lại có thể ôm bát đi trì bình?” Thế rồi con lui về tịnh xá, tìm một cội cây, ngồi kiết già và bắt đầu thiền quán. Chính lúc ấy là lúc thầy đi ngang, thầy dạy con về pháp Quán Niệm Hơi Thở!

– Giỏi lắm! Ðấy không phải là lỗi ở con mà lỗi ở ta. Ta vui mừng với con mới phải!

Tôn giả Xá Lợi Phất đứng dậy, choáng váng mặt mày, phải vịn vai La Hầu La.

– Thầy định đi đâu?

– Ta định đi một vòng quanh tịnh xá, xem thử đây đó ra sao.

La Hầu La cười:

– Thầy yên tâm! Lúc nầy, tất cả mọi nơi đều sạch sẽ, ngăn nắp, tươm tất.

– Là do con phải không? Con lo công việc nhiều quá sẽ bỏ bê sự học đấy!

La Hầu La dìu tôn giả ngồi xuống trở lại, nói rằng:

– Lúc trước, cứ mỗi buổi sáng, con nắm một nắm cát và nguyện rằng, ngày hôm nay phải học nhiều như nắm cát này. Bây giờ thì không thể như vậy nữa. Chư tăng ngày càng đông, giáo hội tỳ-khưu-ni cũng vậy. Các quan đại thần, đức vua Pāsenadi, các tướng quân Licchavī, các đại thí chủ lui tới nườm nượp hỏi đạo đức Tôn Sư. Thế là công việc ở tịnh xá càng lúc càng bề bộn và phức tạp. Vả chăng, không học được lý nghĩa nơi Kinh, Luật, Abhidhamma thì con học sự nhẫn nại, siêng năng, chịu khó, lòng bao dung, tâm từ ái, hỷ xả… trong các công việc chân tay.

Buổi sáng, trước và sau giờ đi khất thực, con và các sa-di khác họp bàn nhau để làm tất cả mọi công việc. Có một số sa-di được các trưởng lão mang từ đâu đó về, thả xuống đây, họ còn lóc chóc, phá phách, hoang nghịch lắm. May mắn làm sao, mấy lúc này, có mấy tôn giả sa-di xuất hiện, cáng đáng, giúp đỡ chúng con rất nhiều việc.

– Các tôn giả sa-di? Ngài Xá Lợi Phất ngạc nhiên nói – Thật là ta mới nghe lần đầu! Ý con muốn nói đến những vị sa-di A La Hán đã được đức Thế Tôn tuyên dương trước đại chúng?

– Không phải các tôn giả ấy! Tôn giả sa-di Thông Trí từ hôm đắc quả thánh tối cao đến giờ, ngài thường đi hóa độ phương xa. Tôn giả sa-di Upatissa lại thích sống mãi ở khu rừng sâu ấy. Hai vị tôn giả mà con muốn nói đây là hai tôn giả một mắt: Vị bị cái quạt đâm, vị bị cái que đâm từ lúc mới sanh!

– Ta biết chứ! Nhưng hai vị ấy hiện giờ đâu có rảnh rỗi gì! Vị nào cũng có một số đệ tử cần phải giáo giới!

– Ðúng thế! Có lẽ các ngài ấy bận việc lắm, tuy nhiên, các ngài đã xuất hiện rất lạ lùng. Cứ hễ lúc nào công việc bề bộn nhất, các ngài lại có mặt, giúp đỡ chúng con rất chu đáo, chóng vánh, xong xuôi họ đi đâu con cũng không rõ.

– Là những nhân cách tối thượng đấy con ạ! Họ tu đã rất nhiều đời kiếp. Cả hai vị ấy đều xuất gia lúc bảy tuổi. Và kỳ lạ thay! Họ đều chứng quả A La Hán cùng với những thắng trí khi dao cạo tóc vừa tới chạm đầu!

– Thật lạ lùng làm sao! Chúng con ngưỡng mộ hai tôn giả ấy! Khi có hai cái đầu và bốn cánh tay của hai ngài thì Kỳ Viên tịnh xá ngăn nắp, gọn gàng đâu ra đó như một phép lạ. À, thầy có thể kể đầy đủ nhân quả tu tập của hai vị cho con nghe được không?

– Ðược chứ! Nhưng những công việc sáng nay thì sao?

– Thưa, các người phụ trách chỗ này chỗ kia đã được cắt đặt, phân công xong xuôi.

Tôn giả Xá Lợi Phất ngạc nhiên nói:

– Lạ nhỉ! Ta mới đi xa có năm, bảy hôm, mà ở đây, con và chúng sa-di đã thay ta làm tốt các công việc hơn cả ta nữa đấy! À, coi nào! con cắt đặt, phân công như thế nào, nói thử cho ta nghe xem.

– Thưa vâng! La Hầu La vui vẻ mau mắn đáp – Nơi bệnh xá lúc này có một số tỳ-khưu ở Kosambī, Vesāli về, đường xa nên ngã bệnh. Họ bị sốt rét, tả lỵ hoặc thương hàn. Hôm kia, đại đức Mục Kiền Liên đến thăm viếng, ủy lạo, an ủi và sách tấn tinh thần. Khi đi, ngài khuyến khích năm thầy tỳ-khưu trẻ ở lại, nhiệt tình chăm sóc cho người bệnh. Còn chuyện cơm nước, thuốc men, ông Cấp Cô Ðộc vẫn thường cho người cung cấp rất chu đáo. Nhưng mà việc quét bệnh xá, khử trùng, phơi giặt y áo, đổ các ống bô cùng nhiều việc tạp dịch linh tinh khác thì nhóm sa-di chúng con tình nguyện thêm năm người phụ việc.

– Lành thay! Các con tốt quá! Ta rất cảm động! Ta rất cảm ơn các con!

– Nơi tăng xá, nơi chỗ chư tăng ở và đi thì thật là lộn xộn. Biết bao nhiêu là việc về giường hư, gối bẩn, mùng mền rách và dơ. Chúng con ba, bốn người làm không xuể. Ngài Ðại Ca Diếp thấy tội nghiệp nên đã cắt đặt thêm cho bốn vị tỳ-khưu trẻ nữa!

– Hay lắm!

– Còn đại giảng đường mênh mông thì công việc cũng mênh mông. Ngay chỗ thuyết pháp của  đức Tôn Sư, bao giờ cũng có cả rừng hoa tươi, hoa héo lẫn lộn nhau, lại có cả một số hoa đã mũn ra. Nơi mấy chỗ lò trầm lúc nào cũng vấy bẩn tàn tro, cái cháy, cái không cháy rơi rớt xung quanh. Hàng ngàn tọa cụ, hàng trăm chiếc chiếu đủ loại, đủ cỡ bừa bộn, lỉnh kính nằm một đống chỗ này, nằm một đống chỗ kia, xâm chiếm cả các hành lang. Ngay việc sắp xếp, quét dọn vào mỗi buổi sáng thôi, mười người cũng không lo xuể. Tội nghiệp cho đại đức A Nan Đa đầu tắt mặt tối ở đây cùng với bảy, tám đệ tử của ngài nữa. Cách đây hai hôm, chúng con có thêm mười sa-di tình nguyện vào phụ giúp công việc hàng ngày ở đại giảng đường, đỡ đần công việc cho đại đức được nghỉ ngơi chút ít.

– Ồ, rất tốt! Tốt quá!

– Ngoài hương phòng của đức Tôn Sư, ngài A Nan Đa thường cử một vị tỳ-khưu lanh lẹ, có ý tứ nhưng chúng con vẫn phụ thêm một sa-di quét dọn cho sạch sẽ đường đi kinh hành và phạm vi khu rừng xung quanh.

– Ðúng thế!

– Nơi phòng tắm công cộng, nhà tiêu công cộng, phòng giữ lửa… bao giờ cũng có túc trực sẵn một số sa-di.

– Chu đáo lắm!

– Nơi phòng tiếp tân cũng rất bề bộn công việc. Cứ phái đoàn này đi thì phái đoàn khác đến. Đại đức A Nan Đa thường trực cho mấy vị tỳ-khưu nói năng văn vẻ, khiêm cung, lịch thiệp để tiếp khách. Dầu là vua chúa, các quan đại thần, tướng quân, đại triệu phú, giáo chủ các tôn giáo bạn, du sĩ, đạo sĩ hành cước… bất cứ ai muốn gặp đức Thế Tôn hoặc vị nào đều phải sang đấy trước đã. Ở đấy, sa-di chúng con tình nguyện thêm bốn người thay nhau làm vệ sinh, dẫn khách, tiếp nước…

– Tốt!

– Còn nữa! Nơi chỗ ngoài và trong khuôn viên tịnh xá, bao giờ cũng có mấy trăm kẻ tàn thực, họ làm vấy bẩn, phức tạp, ô uế đủ mọi thứ. Trước đây thầy có cắt cử một số các vị tỳ-khưu và sa-di ở đấy nhưng lần lượt họ bỏ đi hết, chỉ còn vài sa-di làm không hết việc. Bọn tàn thực họ đi lung tung, xả uế lung tung, nhưng nay thì chúng con đã ngăn giữ họ lại, quy định họ vào một chỗ. Các thầy tỳ-khưu dùng ngọ xong ở đâu đó, đi ngang có thể cho họ vật thực thừa.

– Trưởng giả Cấp Cô Ðộc đã mấy lần quy họ về trại tế bần, trại chẩn bần rồi kia mà?

– Bạch thầy, họ kiếm chác cả hai nơi. Họ trốn ra ngoài mọi chỗ ở.

– Thật đáng xót thương cho tâm địa của họ!

– Bạch thầy! Xót thương thì cũng đáng xót thương nhưng rõ ràng tâm sao thì cảnh vậy. Ðịa ngục và ngạ quỷ có sẵn trong tâm họ, cả a-tu-la nữa, nên họ đi đâu thì mang cảnh giới ấy đến đó. Ăn no rồi thì sinh chứng trộm cắp, đánh đập, chửi mắng nhau… kéo ra sông, ra rừng mà đú đởn, rửng mỡ, cười cợt, khóc lóc, nhảy nhót, luôn luôn than khổ, luôn luôn than đói… Rõ ràng là chúng không bao giờ biết đủ!

Tôn giả Xá Lợi Phất hiền từ nói:

– Chúng mà biết đủ thì làm sao có bốn con đường khổ hở con?

– Thưa vâng! Thật phải kham nhẫn, chịu thương chịu khó, mở rộng tấm lòng từ, may ra mới tiếp xúc, thương yêu và thông cảm với họ được. Ai đời, cho họ ăn uống, y phục, thuốc men… mà họ vẫn cứ chửi mắng, vẫn nói xấu, vẫn ganh ghét, vẫn chứng nào tật nấy…

– Thôi con! Hãy chịu khó! À, còn những người phụ trách công việc, vật thực buổi trưa, ai lo? Phương cách của ta: Người đi hai bát nuôi một người làm việc còn được áp dụng không?

– Thưa vâng, vẫn còn áp dụng. Các tôn giả Ðại Ca Diếp, Ðại Mục Kiền Liên (Mahā Moggallāna), A Nan Đa (Ānanda)… cũng dạy đệ tử các ngài phương cách ấy.

– Rất tốt, tốt lắm! Tôn giả Xá Lợi Phất nói tiếp – Không những chúng ta bận rộn nhiều công việc mà các ngài trưởng lão khác cũng thế. Con biết sao không? Giáo pháp của  đức Tôn Sư đã phát triển ra rất nhiều quốc độ. Cả hàng ngàn, hàng ngàn am thất của tỳ-khưu và tỳ-khưu-ni mọc lên như nấm khắp các thành phố, thị trấn, làng mạc… khi mà giáo hội lớn mạnh chừng nào, phát triển chừng nào thì những tệ trạng, phức tạp, xấu xa càng phát sanh chừng đó. Ít hôm nữa, ta lại phải đi xa để giải quyết một vài việc bất hòa giữa tăng chúng.

Lặng lẽ nhìn thầy với lòng thương xót vô hạn, La Hầu La nói:

– Bạch thầy, thầy còn đang ốm.

– Không sao!

– Trưa nay thầy đừng đi khất thực nữa. Chúng đệ tử xin được cúng dường.

– Không sao đâu con, ta dự định nhịn ăn vài bữa, khỏe hẳn rồi sẽ lên đường.

La Hầu La nói:

– Thầy thường làm vậy nên con không dám cản. Nhưng khi nào khỏe, thầy hãy kể cho chúng con nghe về hai vị tôn giả sa-di. Tăng chúng truyền miệng với nhau, chắp đầu này, vá đầu kia, chúng con không biết đâu là sự thực.

– Bây giờ vẫn còn sớm, con hãy đi một vòng, ai xong việc thì con quy tụ về đây, ngoài rừng cây, ta sẽ kể chuyện cho chúng sa-di cùng nghe.

La Hầu La vâng mệnh, đảnh lễ tôn giả rồi bước đi. Ngài cũng muốn dạo một vòng, xem thử công việc đây đó thực tế nó hoàn mãn đến mức nào.

Giờ ấy là giờ chư tăng lác đác rời am thất đi trì bình. Trông những bóng vàng thấp thoáng giữa rừng cây thật là đẹp, thật là thanh bình, thật là thiền vị. Ngài đưa mắt nhìn. Quả thật, đâu đó đều sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng. Rác khô, lá khô được tấp lại thành đống, đốt lên, khói lan tỏa, nhẹ nhàng rồi trộn lẫn trong sương mù. Cốc liêu nửa ẩn, nửa hiện giữa màu xanh điệp trùng, nối nhau vắt qua sườn đồi thoai thoải, qua các triền đá, xuống suối… đúng là dáng dấp một con rồng nằm lấp ló trong mây!

Ðến một khúc đường quanh, thấy có một nhóm sa-di, sau công việc, đang còn nắm trên tay những cây chổi bằng lá chà là: Họ đang tụ tập và tranh luận nhau về một đề tài nào đó. Tôn giả ngồi xuống nơi một tảng đá, khuất sau cội cây cổ thụ, lắng nghe.

Một tiếng nói:

– Quét rác cũng tu tập! Thầy tôi, bậc Tướng quân Chánh pháp dạy như vậy.

– Bạn đưa bậc Tướng quân Chánh pháp ra mà dọa thì ai chịu thấu? Nhưng “nghe nhiều, học rộng” không phải là tu tập sao?

– Ai cũng không biết bạn là học trò cưng của tôn giả A Nan Đa mà lại đánh trống thổi kèn lên như thế!

– Sống đời trì bình khất thực, thực hành một đến mười ba pháp đầu-đà (Dhutaga)(1) là tu tập một cách đại cao thượng chứ?

– Ai mà không biết thế, ông bạn tiểu Ðại Ca Diếp! Vậy bạn tu được mấy pháp đầu-đà nào?

– Vì tôi còn nhỏ, ngày nào cũng “đuổi quạ”, gánh nước, quét rác miết, biết làm sao được!

– Thế là tu đấy, mà lại tu giỏi nữa, đừng lo, ông bạn tiểu đầu-đà ạ!

– Phải thông thuộc tạng Abhidhamma, các bạn nên nhớ như vậy! Abhidhamma mới “siêu” chứ!

– Tôn giả Xá Lợi Phất thông suốt tạng Abhidamma mà tôn giả đại Mục Kiền Liên cũng thế, lại có thêm cả đại thần thông nữa. Là đệ tử của ngài, bạn có được mấy tạng, mấy thông hử?

– Anh em đừng có nhạo nhau nghe, nhạo nhau là không tốt đâu đấy. Ðừng bắt chước bọn sa-di vừa mới tới mà hư hỏng đó nghe!

– Thôi, xin lỗi, thành thật xin lỗi!

– Xin lỗi không được đâu, phải sám hối kia!

– Sám hối thì sám hối, có sao đâu! Sa-di huynh trưởng của tôi, La Hầu La, còn thực hành những hạnh khó làm hơn vậy nữa kìa!

– Phải thông Luật nữa, các bạn! Không biết Luật thì làm sao gọi là tu? Giới mới sinh Ðịnh, Ðịnh mới sinh Tuệ mà!

– Không sai! Ngài Ưu Bà Ly (Upāli) con!

Có một giọng lớn tiếng, át tất cả:

– Này các bạn! Các bạn nói đúng cả đấy. Về phương diện tu tập nào, nếu được thực hành tốt thì đức Thế Tôn, bậc Tướng quân Chánh pháp, đại Mục Kiền Liên đều tán thán, sách tấn, ca ngợi cả! Nhưng các bạn nói chưa hay! Làm sao các bạn nói về cách tu của mình một cách có hình ảnh cụ thể, sống động, nó mới tuyệt cú mèo!

– Thế nào là hình ảnh cụ thể hả?

– Thế nào là sống động, tuyệt cú mèo hả?

– Ví như tôi nói đây nhá! Tu là như nhảy xuống sông mà bơi, thế rồi hai tay cứ quẫy miết, hai chân cứ đạp miết, thế là có ngày sang được Bờ Bên Kia! Bờ Bên Kia là cái gì nhỉ – cái gì mà bậc Tướng quân Chánh pháp hay nói đấy? Cái gì hở ông bạn tạng Abhidhamma?

– Pāramī (đến bờ kia)

– Cao hơn nữa kìa!

– Upapāramī (đến bờ trên)

– Hơn chút nữa!

– Paramatthapāramī (đến bờ rốt ráo, cao thượng)

– Ðúng đấy! Ðúng cái chữ ấy đấy!

Một tiếng cười ha hả:

– Cứ quẫy miết, cứ bơi miết; nếu bạn không chết chìm thì có lẽ bạn sẽ sang được bên kia sông Hằng, nhưng đến được cái Paramatthapāramī thì còn lâu!

Mọi người thảy đều im lặng. Cái ví dụ có hình ảnh sống động bơi qua bờ thì rất hay, nhưng người hỏi ngược lại thì cũng chẳng có ai cãi được!

– Vậy bạn thì sao nào? Ðừng đứng đó mà cười người ta!

Người kia vẫn còn cười, đáp:

– Tôi ấy à? Tôi có cách tu của tôi! Cũng có hình ảnh lắm, cụ thể lắm, chẳng thua gì bạn đâu!

– Nói đi, ông bạn thân yêu!

– Thì nói, này nhé! Tôi tu như kiểu bắn chim vậy!

– Cũng kỳ đấy, nói nghe coi!

– Tu như bắn chim nghĩa là cái cung cho tốt, mũi tên cho tốt, mắt nhắm cho trúng, thế là chim rơi!

–  Gì là cung tên? Gì là mắt nhắm? Gì là con chim? Phải giải thích cho rành rõi chứ?

– Con chim là Niết Bàn, thưa chư hiền! Cung tên là Giới Ðịnh, nhắm mắt cho trúng là Trí Tuệ, thưa chư hiền! Muốn đến Niết Bàn mà không đi theo lộ trình Giới, Ðịnh, Tuệ thì đi bằng gì? Các bạn cứ cãi đi nào?

– Chịu, nói vậy thì đủ cả Tam Tạng, chẳng ai mà cãi nổi!

Chợt một giọng cười hề hề cất lên:

– Rằng hay thì thật là hay, nhưng nghe ra như thể một tay học mờ!

– Ngon nhỉ! Nhưng tại sao bạn bảo tôi là học mờ?

– Có gì đâu! Học mờ là học chưa sáng, chưa thông! Nếu bạn bảo bạn sáng, bạn thông thì thử giảng về Giới Ðịnh Tuệ một cách nghiêm túc, thấu đáo, rốt ráo nghe coi nào?

Im lặng một lát, vị kia chợt xuống giọng:

– Ðúng vậy! Bạn nói đúng! Tôi nói cái lỗ miệng chơi thôi! Không giảng nổi đâu! Tôi rất “gà mờ” là khác!

– Thế anh bạn kia! Bạn bắt bẻ người ta thì hay; còn bạn, bạn tu ra sao?

– Tôi ấy à? Tôi có một phương pháp siêu tuyệt mà lại rất đơn giản: Tôi tu theo kiểu bắt dế đấy các bạn!

– Bắt dế?

– Phải, như bắt dế vậy thôi!

Mọi người chầu quanh, trố mắt ngạc nhiên. Vị sa-di kia nói:

– Hãy lại đây xem, các bạn!

Nói xong, vị sa-di kia dẫn mọi người đến bên một mô đất. Họ lom khom nhìn vào các hang lỗ. Vị sa-di nhanh tay lấy đất bít chặt mấy lỗ, còn chừa sáu lỗ, rồi nói:

– Trong sáu lỗ này, không biết cơ man nào là dế. Các bạn muốn bắt chúng thì phải làm sao nào?

– Dễ ợt, lấy lửa mà đốt!

– Bạn nói vậy là sai rồi, là sát sanh rồi!

– Vậy lấy nước được không? Ngộp nước là chúng bò ra ngay!

– Sẽ có con chết ngộp, ông bạn!

– Chịu thôi!

– Vậy xem đây!

Vị sa-di lấy đất bịt chặt năm lỗ, chỉ chừa một lỗ, rồi chú lấy tay vỗ mạnh lên đất xung quanh hang dế. Mọi người thấy vui bèn vỗ theo. Một lát có một con thập thò, ló ra, nhúc nhích mấy sợi râu rồi bỏ chạy. Các con khác từ từ chạy ra theo.

Vị sa-di vừa reo cười vừa đếm:

– Một con, hai con, ba con… Chú nâu, chú xám, chú đỏ, chú to, chủ nhỏ, chú vừa… Tất cả đều được thấy rõ, ghi nhận rõ…

– Bạn nói gì vậy? Tại sao không bắt mà lại ghi nhận, thấy rõ?

– Hãy nghe đây, thưa chư hiền! Bắt dế chính là phép tu tuệ quán mà thầy tôi, bậc Tướng quân Chánh pháp thường dạy. Sáu lỗ dế tượng trưng cho sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Bịt chặt năm căn, chỉ còn chừa lại một căn ý mà thôi! Ý căn cũng là nhận thức, nó quan sát luôn cả ý căn. Khi hành tuệ quán, quan sát như thế thì những tâm niệm của chúng ta tựa như những con dế… Con xanh là tham, con đỏ là sân, con đen là si… gì đó đi ngang qua ý căn đều phải được nhìn ngắm, đều phải được thấy rõ. Thấy rõ, nhận biết thôi… chứ không được chụp bắt con dế nào cả! Thưa chư hiền! Chụp bắt chính là chấp thủ. Vậy hãy tha thứ cho nó, buông xả chúng đi. Khi ấy thì cả bọn, cả lũ họ hàng nhà dế lâu đời lâu kiếp ở trong tâm chúng ta… đều phải ra ngoài mà đi chơi chỗ khác hết! Vậy là hết dế, vậy là hết tham sân, phiền não, vậy là giải thoát! Có phải thế không?

Các chú sa-di ngơ ngác, trố mắt nhìn ông pháp sư tí hon. Rõ ràng là trò bắt dế này hay quá, ấn tượng quá. Họ không biết là có chỗ nào sai trong lối diễn giảng ấy không nhưng ai cũng lãnh hội được ý nghĩa.

Chợt một sa-di đưa ra một câu hỏi cắc cớ:

– Vậy thì cái vỗ, cái đập ấy là gì?

Mọi người chăm chăm nhìn vào vị pháp sư chờ câu trả lời, nhưng vị sa-di nhăn nhó đưa tay gãi gãi đầu, không đáp được!

Tôn giả Xá Lợi Phất tự nghĩ: “Thật là may mắn cho giáo pháp! Thật là triển vọng thay cho giáo pháp! Ðây là thế hệ kế thừa rất trẻ trung, rất sáng tạo về ngữ nghĩa, về ví dụ, về ẩn dụ. Chính nhờ thế hệ này mà sau này giáo pháp sẽ phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc hơn. Qua câu chuyện này, ta càng xác tín được một điều, là có nhiều căn cơ rất dễ nhạy bén về trí tuệ chứ không phải chỉ có một vài trường hợp biệt lệ. Lại nữa, tâm hồn họ rất trong sáng, chưa bị bụi đời vấy nhiễm, chưa bị dính mắc bởi những kinh nghiệm, thói quen, tập quán thế tục. Vậy đối với thế hệ đồng chân xuất gia này, người thầy phải biết hướng dẫn, phải biết tôn quý, cẩn trọng, sáng suốt, cảm thông và thương yêu! Họ sẽ là những đóa hoa sen tinh khiết tô thắm cho tượng đài Tam Bảo trong mai hậu”.

Tôn giả từ từ bước ra. Các chú sa-di thấy ngài, hoảng sợ quá, đồng quỳ lạy.

Tôn giả mỉm cười, đến xoa đầu vài chú sa-di rồi vui vẻ ngồi xuống bên cạnh mấy hang dế.

– Câu chuyện giữa các con với nhau thật là tuyệt vời Ngài chậm rãi nói – Từ chuyện quét rác, kinh luật đến chuyện bơi qua sông, bắn chim, bắt dế… tất cả đều tuyệt vời! Ta đã học được nơi các con rất nhiều điều đấy! Ôi! Các con của ta thật ngoan ngoãn, thông minh, dí dỏm, thực tu, thực học – thật là tuyệt vời!

Các chú sa-di tưởng là sẽ bị la rầy, không ngờ lại được khen ngợi hết mình; mà người khen ngợi họ lại là bậc Tướng quân Chánh pháp, bậc lãnh đạo uy nghiêm, bậc vua chúa chưa chắc đã dám gần, bậc mà chính các vị thượng tọa niên cao, lạp lớn thấy ngài cũng run sợ, bậc mà ngay các giáo chủ ngoại đạo gặp mặt đã bị khớp tinh thần, cho nên họ vô cùng sung sướng, trố mắt, hễnh mũi ra!

Ngài âu yếm nói:

– Cái trò bắt dế này hay lắm đấy! Hồi nãy, ai trong các con đưa ra câu hỏi hóc búa là: Cái vỗ, cái đập ấy là gì? làm cho ta cũng phải suy nghĩ đến nát cả óc!

Các chú đồng cười reo:

– Bậc Tướng quân Chánh pháp mà cũng nát cả óc à? Hay quá nhỉ!

Ngài cười xòa:

– Phải nát óc chứ! Nát óc một hồi mới nghĩ ra được chứ dễ đâu!

– Tuyệt vời, bộ óc của ngài mới tuyệt vời làm sao!

– Ngài hãy giảng cho chúng con nghe!

– Này nhé, các con! Ngài cất giọng lớn hơn một tí – Tu tuệ quán là như vậy đấy. Hãy bịt chặt năm căn, chừa lại một căn là ý căn để quan sát. Hãy quan sát các tâm niệm như người đứng canh cửa vậy, cứ ngồi nhìn và điểm mặt: À, đây là dế lửa, dế mèn, dế choai choai, dế lóc nhóc… Tất cả họ hàng nhà dế đều phải được ghi nhận một cách rõ ràng như thế.

Một chú chợt hỏi:

– Vậy cái vỗ, cái đập là gì, bạch thầy?

– À, vỗ, đập là những động tác kích thích. Bất kỳ một pháp nào mang năng lực tác động, hỗ trợ, kích động, lay động… làm cho các thiện pháp tăng trưởng, làm cho tâm càng ngày càng được trong sáng, vắng lặng… thì nó chính là cái vỗ, cái đập ấy!

– Hay quá! Ðúng quá!

Một chú có vẻ nghĩ ngợi rồi vòng tay nói:

– Bạch thầy! Biết sợ hãi những ý nghĩ xấu ác thì đấy có phải là cái vỗ, cái đập ấy không?

– Ðúng lắm! Ngài tán thán – Con thật là giỏi, đã thấy rõ cái năng lực hỗ trợ ấy!

Vị sa-di khác cũng không chịu thua:

– Bạch thầy! Phải siêng năng công việc, đừng ăn no quá, đừng ngủ nhiều quá, đừng gây gổ tranh hơn tranh thua với chúng bạn thì có phải là cái vỗ, cái đập ấy không?

– Lại đúng quá nữa! Các con thật tuyệt vời!

– Bạch thầy! Phải biết kính trên, nhường dưới, siêng năng nghe pháp, học hỏi giáo pháp, mở rộng lòng từ, biết yêu thương huynh đệ!

– Rất đúng, rất giỏi!

– Bạch thầy! Ði, đứng, ngồi, nằm đều phải chánh niệm, tỉnh thức… để xóa bỏ dễ duôi, hôn trầm, giải đãi cũng là cái vỗ, cái đập nữa chứ?

– Ðúng thế, không sai được!

Ðược khen ngợi liên tục, chúng sa-di hoan hỷ quá, có lẽ suốt ngày hôm nay, chúng không cần ăn mà vẫn no!

Riêng ngài Xá Lợi Phất lại tự nghĩ:

“- Như rừng cây của ông Kỳ Đà này: Cây nào lá nấy, hoa nào hương sắc nấy, loại nào cũng có cái đặc thù riêng của nó, thì chúng sa-di này cũng vậy; chúng đều có sở thích riêng, cá tính riêng, thói quen riêng… nhờ vậy khu rừng giáo pháp mai hậu mới phong phú, đa dạng. Ðừng tạo nên những khuôn mẫu giống nhau; tạo khuôn mẫu hoặc quy định khuôn mẫu sẽ thui chột thiên tài, thiêu hủy năng lực sáng tạo tự do và hồn nhiên của chúng”.

Họ tụ họp giữa rừng cây, tôn giả Xá Lợi Phất nhìn quanh hội chúng sa-di trẻ trung, mỉm cười nói:

– Các con ngày mai sẽ là rường cột cho Giáo hội nên phải sống sao cho thật tốt, thật đẹp; phải biết nghe lời các bậc huynh trưởng, các bậc trưởng lão để đem lại hạnh phúc cho mình và cho người khác. Các con có làm được thế không?

Cả hội chúng reo lên vui vẻ:

– Làm được, chúng con làm được.

– Chúng con mong ước trở thành như bậc Tướng quân Chánh pháp kia!

– Mong được thần thông như ngài đại Mục Kiền Liên kia!

Tôn giả nói tiếp với giọng đầy thương yêu trìu mến:

– Vậy là tốt. Nhưng đôi khi các con chỉ cần noi gương các huynh đệ của các con thì đã là một đại hạnh cho giáo hội rồi. Như noi gương các tôn giả sa-di Upatissa, Thông Trí, sa-di của trưởng lão Tissa, sa-di Samkicca. Bây giờ thầy sẽ kể cho các con nghe về sa-di của trưởng lão Tissa nhé!

Rồi Ngài kể:

– Có một chàng thanh niên ở Kosambī sau khi nghe pháp từ bậc Ðạo Sư, anh ta từ bỏ thế gian và xuất gia. Do nhờ giới hạnh tinh nghiêm nên được đồng đạo kính trọng gọi là trưởng lão Kosambīvasi Tissa.

Năm kia, trưởng lão Tissa sau khi mãn hạ, thí chủ đem đến dâng cúng y áo, mùng mền, và lỉnh kính rất nhiều món tứ vật dụng khác. Trưởng lão Tissa nói: “Vậy là ta đã thọ nhận rồi, nhưng cái đống ấy các ngươi mang về đi nhé!” Thí chủ thưa: “Ngài nói vậy là ngài không có lòng từ với chúng con.” Trưởng lão Tissa đáp: “Còn nhận thì ta không có lòng từ với ta!” Thấy họ không hiểu, ngài nói: “Các ngươi thử nghĩ coi, một thầy tỳ-khưu sống ta-bà vô trú, sau mùa an cư là như con chim thênh thang giữa trời cao bể rộng. Bây giờ các ngươi bắt vị tỳ-khưu ấy mang theo cả đống tứ vật dụng thế kia thì biết làm sao hử? Sao không sắm thêm cho ta một chiếc đòn gánh để ta làm gã đàn ông gánh hàng ra chợ bán để kiếm tiền mà nuôi mụ vợ?”

Cả chúng sa-di cười ồ thú vị.

Tôn giả Xá Lợi Phất kể tiếp:

– Thế rồi, sau đó, họ gởi đến một chú nhỏ với hảo ý là chú nhỏ kia sẽ phụ giúp công việc lặt vặt cho trưởng lão. Ai ngờ chú nhỏ chỉ bảy tuổi và họ còn muốn trưởng lão Tissa làm lễ xuất gia cho chú ấy vào hàng sa-di đuổi quạ nữa! Tuy nhiên, nhìn chú nhỏ mặt mày sáng sủa, tinh anh, dễ thương trưởng lão Tissa bằng lòng, dạy cho chú quán tưởng năm thể trược ở nơi thân rồi cho tẩm ướt tóc và chuẩn bị cạo đầu. Khi lưỡi dao cạo vừa chạm vào làn da đầu thì chú nhỏ… bỗng trở thành tôn giả sa-di!

Cả hội chúng ngơ ngác. Riêng La Hầu La thì hiểu nên chú giải thích:

– Vậy là chú ấy chứng đắc quả A La Hán cùng với thắng trí của bậc thượng nhân khi dao cạo tóc vừa mới chạm đầu, phải vậy không bạch thầy?

Tôn giả Xá Lợi Phất gật đầu:

– Ðúng vậy!

Hội chúng sa-di lại reo lên:

– Thiệt là cực kỳ!

– Sướng nhỉ! Chẳng cần tu một ngày nào cả!

– Người ta đã tu mấy a-tăng-kỳ kiếp rồi đấy, ông bạn!

Tôn giả Xá Lợi Phất mỉm cười, tiếp tục câu chuyện:

– Chú bé bảy tuổi đắc quả A La Hán chỉ một mình mình biết, một mình mình hay, còn trưởng lão Tissa chưa chứng cái gì cả nên mù tịt.

Trong thời gian ở tịnh xá, trưởng lão đem tâm yêu mến chú bé thật sự vì chú ngoan ngoãn, lanh lợi, chăm chuyên mọi việc trong ngoài thật chu đáo. Lại nữa, sắc mặt chú bé lúc nào cũng tươi vui, mát mẻ; ăn nói thì lễ độ, khiêm cung; ngồi nằm thì cẩn trọng, tĩnh thức, đêm cũng như ngày.

Hôm kia, trưởng lão Tissa quyết định lên đường, về Kỳ Viên tịnh xá này thăm đức Ðạo Sư, bèn nói với chú sa-di: “Này con, đường sá xa xôi, sức vóc con thì không bao lăm, chỉ mang theo cái gì cần thiết thôi, tất cả những vật cồng kềnh, nặng nề, hãy để lại tịnh xá cho các vị đến sau”. Chú sa-di y lời, nhưng chú cũng mang theo cái đãy quá to, rõ là như nhái tha cóc, chú còn cười: “Nhẹ lắm, không sao đâu bạch thầy! Con chỉ mang cái gì cần thiết cho bộ hành đường xa.”

Suốt dọc đường, trưởng lão Tissa rơi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Khi trưởng lão ngồi nghỉ dưới gốc cây là chú nhỏ dâng tọa cụ. Khi trưởng lão dừng chân giữa rừng là chú nhỏ dâng võng. Ðêm ngủ là có đầy đủ mùng, mền, gối. Khi nóng có quạt. Mới chớm ho hen nhức đầu là có liền thuốc… Trưởng lão Tissa thốt lên: “Thật tuyệt vời thay cái chú sa-di này! Cái đãy của chú dường như là có thần thông í!” Chú sa-di cười cười: “Do phước báu tu hành của thầy mà có tất cả những thứ ấy”.

Họ dừng chân bên một con sông mưa lũ, xung quanh không có làng mạc, chẳng thấy một bóng người. Họ bèn tá túc tại chiếc am nhỏ bỏ hoang, trong đó có một chiếc giường nhỏ. Chú sa-di nhanh tay quét dọn và thỉnh trưởng lão vào nghỉ. Trời mưa tầm tã, chẳng có nhà nào mà khất thực, trưởng lão Tissa nghĩ rằng thế là hôm nay hai thầy trò sẽ nhịn đói. Sau khi xả thiền, xế trưa, ngạc nhiên làm sao, trưởng lão Tissa thấy chú sa-di y áo chỉnh tề, dâng cúng vật thực nóng sốt ngon lành. Trưởng lão hỏi: “Con làm sao có được những thứ này?” Chú sa-di cung kính đáp: “Bạch thầy, đi đường xa, con đã đề phòng sẵn trong cái đãy của con mà!” Trưởng lão Tissa hoan hỷ thọ thực, lòng thầm cảm ơn đã có được một chú sa-di chu đáo nhất châu Diêm Phù Đề.

Trời vẫn mưa và nước sông vẫn dâng cao. Họ đã ở lại đấy hai đêm. Qua đêm thứ ba, chú sa-di tự nghĩ: “Ðêm nay nếu ta ngủ chung phòng thì trưởng lão sẽ phạm giới. Vậy ta đừng nên ngủ, hãy ngăn oai nghi nằm!” Vị trưởng lão cũng biết vậy nhưng vì ngủ quên, gần sáng mới sực nhớ, sẵn cái quạt thốt nốt, trưởng lão quay cán đập nhẹ vào chỗ chú sa-di thường nằm: “Dậy đi con, hãy ra ngoài kia cho đến khi mặt trời mọc”. Vì trời tối đen, trưởng lão Tissa không biết chú sa-di đang ngồi kiết già trọn đêm cạnh chân giường, nên khi huơ quạt ra, đầu nhọn cán quạt đâm vào mắt chú sa-di, tròng mắt lòi ra, máu chảy dầm dề. Dùng thiền định trấn giữ cơn đau, lấy tay bịt mắt, chú nói: “Bạch thầy! Con hiểu chứ, con sẽ ra ngay!” Thế mà trưởng lão Tissa chẳng hay biết gì hết, quay lưng lại, nằm ngủ cho đến sáng. Chú sa-di một tay bịt mắt, nhưng còn một tay, chú vẫn làm mọi việc, chu toàn phận sự hằng ngày…

Trưởng lão thức dậy, chú sa-di dâng nước ấm rửa mặt, sau đó dâng một món cháo nhẹ; chú dâng bằng một tay, tay kia bịt mắt, sợ trưởng lão thấy. “Sao vậy? Trưởng lão hỏi – sao hôm nay con lại trở chứng vậy? Ai đời dâng vật thực cho tỳ-khưu mà lại dâng bằng một tay?” Chú sa-di đáp: “Bạch thầy, con biết chứ! Con biết cái gì đúng phép và cái gì không đúng phép, nhưng quả thật cái tay bên này của con không được rảnh rang!” Nghe nói vậy, trưởng lão mới chợt để ý tay kia chú đang ôm mắt và có máu chảy giữa hai kẽ tay: “Mắt con sao vậy? Hãy đưa ta xem?” Chú sa-di trấn an: “Chẳng có gì quan trọng đâu, bạch thầy, một vết thương nhẹ thôi! Mong thầy an tâm và đừng chấp nhất chuyện con dâng một tay là được!” Trưởng lão nhổm người dậy: “Không được, yên tâm sao được khi con đã lo mọi việc cho ta, khi con là chú sa-di tốt đẹp, hiền thiện nhất trên đời này.”

Nói xong, trưởng lão cầm tay xem mới thấy rõ một tròng mắt lồi ra, bèn hốt hoảng: “Sao vậy? Chuyện gì xảy ra với con đây?” Chú sa-di thở dài: “Chuyện này thầy không biết thì hay hơn. Nếu thầy bỏ qua được chuyện này thì tốt biết bao nhiêu” Chú sa-di đã nói hết lòng như vậy nhưng trưởng lão Tissa vẫn không chịu bỏ qua, nên chú phải kể lại tự sự đầu đuôi. Nghe xong, trưởng lão vô cùng xúc động, tự nghĩ: “Ôi! Lỗi lầm của ta thật trầm trọng xiết bao! Ta làm sao mà tha thứ cho ta được hở trời?” Rồi trưởng lão chấp hai tay lại, với thái độ đảnh lễ đầy tôn kính, ngài nằm trên đất, dưới chân vị sa-di, nói rằng: “Hãy tha lỗi cho ta, hỡi chàng trai tối thắng! Ta đã không biết điều này. Hãy làm nơi cho ta nương tựa, hỡi tâm hồn cao cả!”

Chú sa-di cung kính nâng tay và người của vị trưởng lão, nói rằng: “Con đã ngại thầy có hành động như thế này nên con đã không nói ra, mà khi nói ra, con chỉ mong thầy dứt bỏ mọi ngờ vực, nghi nan. Bây giờ, sự việc thế rồi, thầy không có lỗi, thầy chẳng có gì đáng chê trách, mà con cũng vậy. Chỉ riêng vòng luân hồi, nhân quả trả vay trong các kiếp sống mới có lỗi, mới đáng chê trách mà thôi!”

Sau đó, chú sa-di tìm cách an ủi, trưởng lão cũng không bớt ăn năn, hối hận. Vị trưởng lão không còn an tâm được nữa, khi cơn mưa tạnh, dòng sông đã lặng, có thuyền bè, trưởng lão lầm lũi, không nói không rằng, vác cái đãy của chú sa-di lên đường, tìm đến đức Ðạo Sư…

Kể đến ngang đây, tôn giả Xá Lợi Phất im lặng, hội chúng sa-di cũng im lặng vì cảm động.

– Câu chuyện chú sa-di của trưởng lão Tissa là như vậy đấy, các con thấy có điểm nào noi gương?

Một chú nói:

– Học được tấm lòng nhẫn nhục, từ bi của một vị Thánh tí hon.

– Học được đức thầm lặng, khiêm tốn mà rất cao cả!

– Vị trưởng lão kia cũng rất tốt, nhưng ham ăn, mê ngủ quá!

– Cái câu hay nhất, đáng chiêm nghiệm nhất ở đây là câu: “Thầy chẳng có gì đáng bị chê trách mà con cũng vậy. Chỉ riêng có vòng luân hồi, nhân quả trả vay mới là có lỗi, mới đáng bị chê trách màthôi!”

– Câu ấy đúng là nói được cái ý: “Chẳng có tác giả, chẳng có thọ giả mà chỉ có dòng nhân quả, nghiệp báo nó diễn tiến, nó vận hành”.

Nghe chúng sa-di bàn luận, phát biểu rất chính xác, tôn giả Xá Lợi Phất rất vừa lòng:

– Các con đã hiểu hết cái tinh túy của câu chuyện thì ta biết nói làm sao nữa?

Hội chúng cùng cười.

La Hầu La chợt nói:

– Vị tôn giả sa-di ấy ít nói lắm, lúc nào cũng cười cười, rất là hiền lành. Tất cả chúng sa-di ở đây đều cảm mến và kính trọng.

– Ðúng vậy! Chính khi trưởng lão Tissa về gặp đức Ðạo Sư, kể lại mọi chuyện, nói rằng vị sa-di ấy trong tâm bao giờ cũng mát mẻ, lòng vị ấy quảng đại, vượt trội, khó tìm thấy trên thế gian nầy. Ðức Ðạo Sư xác nhận rằng: Con của Như Lai đã chấm dứt lậu hoặc nên lục căn bao giờ cũng vắng lặng, thanh bình.

 

Sớm hôm sau, mặc dù đang bị cảm, lại phải nhịn ăn, nhưng vì giữ lời hứa với La Hầu La, tôn giả Xá Lợi Phất lại kể câu chuyện một tôn giả sa-di khác trước hội chúng sa-di đang quây quần giữa rừng cây.

– Này các con! Tôn giả Xá Lợi Phất nói – Gia đình của sa-di Samkicca có lòng tin bất thối đối với giáo pháp  đức Tôn Sư, lại thường xuyên để bát cho ta. Họ là gia đình thương gia rất giàu có. Khi người mẹ mang thai thì bị một cơn bạo bệnh, chết một cách đột ngột. Theo tập tục, họ hỏa táng thi hài trên một giàn thiêu ở nghĩa địa. Muốn cho xác được cháy mau hơn, người ta dùng cây nhọn đâm thủng bụng, tim, ruột của tử thi. Một hài nhi ló ra. Người ta khều đứa bé rồi cũng đâm một vài nơi trên cơ thể, và que nhọn đã đâm thủng một mắt của đứa bé. Ðể cho xác chết mau biến thành tro than, người ta bỏ than cục, than hòn lên trên rồi bỏ đi…

 Ngày hôm sau, ra chỗ thiêu xác, mọi người ngạc nhiên xiết bao khi thấy trên đống than hồng còn âm ỉ cháy, một hài nhi bé nhỏ an tịnh như một phọ tượng vàng ngồi trên đài sen. Sau một hồi ngơ ngác lẫn kinh sợ, họ bế trẻ về nhà, cho vời các trưởng lão bà-la-môn uyên thâm tướng pháp và điềm triệu đến tham vấn. Họ tiên tri rằng: “Nếu đứa bé này sống đời của một gia chủ thì phước báu của nó sẽ đem lại lợi ích áo cơm cho gia đình, quyến thuộc trong bảy thế hệ. Nếu xuất gia làm sa-môn thì nó sẽ đắc quả Thánh và có một nhóm đồ chúng năm trăm người”.

Vì mắt của trẻ bị đâm thủng bởi cây que nên gia đình đặt tên cho đứa trẻ là Samkicca! Ðến bảy tuổi, đích thân trẻ xin xuất gia, cả gia đình đều hoan hỷ: “Vậy thì chúng ta hãy đặt đứa bé này dưới chân vị trưởng lão cao quý và xin cho nó làm sa-môn”

Hôm kia, gia đình thương gia nọ thỉnh ta đến, sau khi dâng cúng vật thực, họ nói lên ý nguyện, ta bèn hoan hỷ nhận lời. Dẫn về tịnh xá, sau khi dạy nó quán tưởng năm điều, ta tẩm ướt tóc và chuẩn bị cạo đầu. Cũng như trường hợp sa-di của trưởng lão Tissa vậy, khi lưỡi dao cạo vừa chạm vào làn da đầu là Samkicca đắc quả A La Hán và đắc luôn các Thắng trí của bậc thượng nhân!

Kể đến ngang đây, tôn giả Xá Lợi Phất nghỉ hơi vì cảm thấy mệt. Chúng sa-di lại được dịp bàn tán:

– Thật là cực kỳ!

– Thiệt là sướng!

– Ðủ tháng, đủ ngày – chỉ cần một đụng chạm nhẹ, thế là con gà chui ra khỏi vỏ trứng tức khắc!

– Rõ ràng là Samkicca đã tự đầy đủ trong chính mình cả rồi!

Tôn giả Xá Lợi Phất khẽ họ nhẹ, nói:

– Các con bàn luận đúng cả đấy, giỏi lắm!

Một người hỏi:

– Tại sao than hồng như vậy, đâm thủng như vậy mà trẻ lại không chết, bạch thầy?

– Các con! Tôn giả nói – Kiếp cuối cùng của một vị A La Hán, không có năng lực nào có thể làm vị ấy chết được. Dẫu quả núi Tu Di (Sineru) đổ ập xuống, đè lên mình, vị ấy vẫn sống như thường!

– Chúng con đã hiểu.

– Tôn giả sa-di Samkicca sau đó ra sao hở thầy?

Tôn giả Xá Lợi Phất nhìn quanh hội chúng:

– Chuyện sau đó các con biết rồi mà! Hôm nọ, tại đây, các con đã chứng kiến việc năm trăm tên cướp đã cải tà quy chánh, làm môn hạ của sa-di Samkicca rồi họ cùng về đảnh lễ  đức Tôn Sư!

– Chúng con có nghe, có thấy, nhưng chưa rõ tôn giả Samkicca dùng thần thông gì mà thâu phục lũ cướp hung bạo ấy?

Tôn giả đáp:

– Chẳng sử dụng thần thông nào cả. Hôm đó sa-di Samkicca trú sâu vào định tứ thiền, dao kiếm của bọn cướp chém vào liền bị tét, bị gẫy cả. Chúng sợ và xin quy y làm sa-môn, thế thôi! Năng lực của định tứ thiền, dao kiếm bất khả xâm phạm các con ạ!

Câu chuyện đến ngang đây thì có hai sa-di từ đâu đó, đột ngột xuất hiện, đến quỳ và đảnh lễ dưới chân tôn giả Xá Lợi Phất, cả hai đều bị hư mắt!

Tôn giả Xá Lợi Phất ân cần nắm tay hai người, quay qua chúng sa-di giới thiệu:

– Này các con! Thật là hạnh phúc thay cho các con! Câu chuyện mà ta đã kể cho các con nghe từ hôm qua đến giờ là nói về hai tôn giả sa-di này: Đây là sa-di của trưởng lão Tissa, người hư mắt trái; đây là sa-di Samkicca, người hư mắt phải. Cả hai vị đều là những sa-di tối thượng, là hai ngôi sao sáng giữa hội chúng sa-di, các con hãy lấy đó mà noi gương cho phẩm hạnh tu tập của mình!

Hội chúng sa-di đều hớn hở bao quanh lại. Người thì đảnh lễ. Người thì chấp tay. Người thì đứng ngẩn ngơ chiêm ngưỡng! Người thì nhè nhẹ bước đến sờ tay, sờ y áo với vô vàn cảm tình thương mến và quý trọng.

Tôn giả Xá Lợi Phất nghe trong tâm tràn đầy hoan hỷ.

 


Chú thích:

(1) 13 pháp khổ hạnh chơn chánh để tiêu trừ phiền não.