Điếu văn cung tiễn Giác linh Trưởng lão Hộ Tịnh

13/09/2013 | Chuyên mục: THƠ . 1983 Lượt xem

hotinh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ôi!
Hỡi ôi!
Mây vần vũ
Bão biển Đông thổi mạnh!
Gió gầm gào
Mưa đồi Bắc xối tuôn!
Góc núi hôm qua, nước xói vỡ nguồn
Trăng trốn biệt trong màn đêm lạnh giá
Có cái gì đây
Thê lương, quái lạ!
Mà sau Phật tượng Niết-bàn
Bầy cú rúc thâu canh!
Hiện tượng chi, điềm báo chẳng lành
Nhân thế không hay
Thiên nhiên biết hết!
Hóa ra,
Sư đã liễu nghiệp, ra đi
Khi “thất thập cổ lai hy” vừa điểm tuế!

Ôi!
Hỡi ôi!
Ai đã nghe và ai đã thấy,
Chiếc lá vàng bơ vơ, ngùi suối lạnh
Làn hương thơm ngơ ngác, đuối ngàn cao
Bọt thân thế lao xao
Nỗi tử sinh mù mịt
Lai, khứ – dĩ tằng tri thọ mệnh?
Ngộ, mê – như thị liễu phàm duyên?
Cởi bỏ báo thân
Xả tuốt não phiền
Vĩnh biệt nhân gian
Từ giã ni muội, đệ huynh
Cùng thân bằng, đồ chúng!

Ôi!
Thôi!
Đất lạnh
Liêu đơn
Thu buồn
Lá rụng!
Tình mai trúc, khói sương không động?
Bạn thạch tùng, mưa gió chẳng xao?
Bất động tâm?
Bất động tăng bào?
Tự tại cao sơn?
Bạch vân tự tại?
Suối không hiểu, theo dòng chảy mãi?
Sông biết buồn, bèo chẳng nở hoa?

Ôi!
Thôi!
Hỡi ôi!
Cuộc trầm luân sống chết hải hà
Triệu ly biệt, căm căm khổ đế
Nước mắt, niềm vui dặm trần nhân thế
Có ai hoài số kiếp mong manh?
Vừa sinh ra, bất định xây thành
Rồi sống lại, vô tăm dẫn lối
Đèn Phật đạo nhìn căn, chọn cội?
Đuốc thiền tâm lựa pháp, tầm duyên?
Cổn cổn đào ba
Chẳng ngại chi thuyền?
Phong vũ phiêu phiêu
Vô tâm trước cảnh?
Có lẽ vậy!
Mà cũng không là vậy!
Nên sư đã nhiều năm ba-la-mật độc cư
Đằng đẵng thời gian
Im lặng trầm tư
Im lặng đến đi
Im lặng tùy nghi – số, thời, tính, phận?

Ôi!
Hỡi ôi!
Nhớ giác linh xưa
Thế danh Hồ Ngọc Tịnh
Sinh năm Giáp Thân
Quê quán Thế Chí Tây
Điền Hòa xã, Phong Điền huyện
Mồ côi cha khi vừa hai tuổi
Mẹ thì buồn, bỏ xứ vào Nam
Gởi gắm cô nhi cho chú bác họ hàng
Nuôi nấng, chăm nom
Gian lao, khổ nhọc
Manh áo, miếng cơm đã nghe mùi tủi cực
Nhưng ruộng đồng hoang hóa, khó cho ai
Đành bỏ học nửa chừng, tìm kế sinh nhai
Mười tám tuổi, bươn chải vào Huế kinh
Học nghề “làm nệm” ở Thủy Xuân
Tự túc cánh sinh
Để khỏi làm phiền bà con nội ngoại…

Thế rồi
Hôm kia
Có lẽ đúng giờ linh thiêng, tốt lành hoàng đạo
Để bất ngờ duyên xưa, ngàn năm trở lại
Khi thấy một nhà sư hiền lành ôm bát xin ăn
Hạnh sa-môn dị giản, thanh bần
Ngài Hộ Nhẫn
Với mái lá cốc liêu đơn sơ trên đồi Quảng Tế
Giữa mộ địa tha ma
Giữa cô liêu, quạnh quẽ
Xúc động tâm linh, bỏ việc theo thầy
Đời sống xuất gia, hạnh ngộ từ đây
Nẻo đạo thênh thang, tao phùng đúng lúc!
Xin phục vụ bằng sức trai nhiệt huyết
Làm giới tử
Với vắt cơm, với muối dưa đạm bạc
Nhưng bừng bừng chí khí nghìn cân
Công việc trăm ngàn, thánh địa Thiền Lâm
Bạn với cát sỏi, bạn với xi-măng
Bạn với gạch đá nặng nề
Thuở ban sơ khó khăn dựng lập
Năm một chín sáu sáu
Với phẩm mạo sa-di
Pháp danh Hộ Tịnh
Thầy độ cho
Để y bát sớm hôm mạng mạch
Dựng cao chiến thắng y vàng
Trên đầu ngọn cỏ đất Thủy Xuân
Dang nắng, đội mưa
Vén gió, đạp sương
Bằng ý chí dõng mãnh, phi thường
Với nghị lực kiên cường, bất khuẩt
Thế là Phật tượng, am cốc…
Thế là giảng đường, bảo tháp…
Lần lượt ra đời
Thành quy mô một cảnh già-lam…
Nghề nề, kiến trúc, lao công
Trăm việc chân tay nặng nhọc, gian truân
Sư gánh phần đảm nhiệm
Không là đệ tử trưởng
Vì trước đã có sư Hộ Tâm
Sau lại có thêm quý sư Hộ Chánh, Định Lực
Nhưng sư vẫn là người ngọn sóng, đầu khơi
Quán xuyến, lo toan mọi việc trong ngoài
Cũng là người tính từng cân sắt, ký gai
Giúp đỡ liêu thất chư ni
Cho quý cô Từ Niệm, Từ Nguyện, Từ Minh, Từ Ngọc
… vào buổi đầu tịnh xá dựng xây…

Chợt nhớ lại:
Năm một chín bảy hai
Duyên Phật sự ở Trúc Lâm
Là một ngôi làng tre xanh hiền hòa, mộc mạc
Phía sau Thiên Mụ tự
Cùng với sư Hộ Tín
Bạn đồng hành đến đây
Để gieo duyên với thôn dân Phật tử
Một chùa lá hình thành
Để sớm hôm nuôi dưỡng tín tâm
Một mình sư, ngày qua ngày
Tay búa, tay đục
Lụi cụi, lăm căm
Đẽo đá tìm giếng nước uống ăn
Đổi sức trẻ, đổi mồ hôi
Để nhu cầu, phương tiện chùa am hoàn bị
Từng bát thức ăn
Mươi vắt cơm cùng chung gói muối tiêu, quả ớt
Quá đủ nuôi thân
Và cũng quá đủ để phục vụ sinh quần!

Ôi! Thương thương làm sao
Với vóc hạc gầy gò, xương xẩu
Bởi dáng mai mảnh khảnh, lênh khênh
Chừng chưa được bốn mươi cân
Lại khổ hạnh tịnh tu chẳng ai bì nổi
Nếu sư Định Lực
Tịnh khẩu, tuyệt thực nhất tuần… thập nhật…
Thì sư “ngủ nghỉ không nằm!”
Khởi tâm lập nguyện khó hơn!
Suốt mấy tháng trường
Đêm đêm lưng dựng thẳng băng
Quyết đánh bại sự yếu mềm thân xác
Rồi đột ngột, sư Hộ Tín xả y, bỏ bát
Lập gia đình với một cô gái trong thôn
Thế là bà con Trúc Lâm sút giảm đức tin
Lại thêm một chín bảy lăm
Rừng thiền tan tác chim muông
Vườn chùa xạc xào mưa gió
Trăm ông sư, còn lưa tám, chín
Số bạn đạo, chỉ đậu vài, ba
Mái lá Huyền Không Lăng Cô
Vốn là nơi huynh đệ ruột rà
Chung tay cúp, cuốc… từng rẫy khoai, rẫy sắn
Lại Hói Mít rong chơi
Tiếp là lãng du Hói Dừa, Hói Cạn
Tay xách rựa sa-môn
Vai vác đãy ta-bà…
Để đốn củi, chặt cây!
Chẳng nệ hà bao sớm, bao chầy
Không kể quản bấy hôm, bấy buổi
Răng cũng được, nghỉ rừng, ngủ suối
Rứa mà vui, nằm đất, gối trăng
Từng nồi chè to thắm thiết đãi đằng
Chỉ sắn mốc, khoai đen: lấp đồi, bạt núi…
Với mình trần, thân trụi: chẻ đá, làm văn
Vậy mà,
Có những câu thơ lạnh buốt nhân gian…
Có những chung trà ấm, lửa đạo thiền lại nhen âm ỉ…

Ôi!
Còn nữa
Kể thêm chút nữa
Năm một chín bảy tám
Tại vườn chùa Huyền Không Nham Biều
Cùng với huynh đệ thương yêu
Vườn cải, vườn rau, vườn poa-rô
Cùng với dây bí, dây bầu – trái đeo lủng lẳng
Lại phải nếm trải chát chua mặn đắng
Và cũng nhọc nhằn thao thức, trở trăn
Suốt mấy năm này chùa tự túc áo cơm
Lại phải lót dạ bữa bo bo, bữa cháo heo lỏng bỏng
Hạo khí ngất trời học Pāḷi, học Hán
Viết văn, làm thơ, kinh sách đọc vạn trang
Gần hai mươi người cùng dựng “cao sơn”
Giữa “triền chợ”, chí sa-môn hạnh nguyện…
Ôi tháng, ôi năm!
Ôi trò chơi dâu biển!
Kẻ mất người còn
Kẻ đến, người đi…
Anh em thuở xưa
Chỉ còn trên mấy ngón tay
Mải đếm thiếu?
Không thấy thừa?
Ai cũng “tạm có cơ ngơi sự nghiệp”
Còn sư vẫn một mình y bát tới lui
Nay ở làng quê
Mai về góc núi
Lúc mời vào Bửu Long
Khi thỉnh ra Nội Phật
Hành trang rỗng không
Mà trời đất cũng rỗng không!

Ôi! Lại kể về
Từ lúc đức Tăng trưởng ra đi
Sư bệnh nặng trầm kha mà chẳng ai hay biết
Cả lục phủ, ngũ tạng thốn đau, rên siết
Xương sống khô dòn, vôi hóa rễ tre
Nào mật, nào đường,
Nào tim, nào phổi… mà sư vẫn nín khe!
Vốn chịu đựng đã quen nên nhẫn im mõ bể
Sư Tâm An
Giám tự Thiền Lâm là do Tăng cử
Nên đồi sau Phật tượng Niết-bàn
Sư chọn chỗ ẩn thân
Lại tịch mịch cô đơn
Lại chiếc bóng âm thầm
Ngắm trần mộng, đốm hoa đại hóa
Nào danh lợi
Nào thị phi đã từ lâu xả bỏ
Sự nghiệp sa-môn
Vẫn như xưa: vô sản, bần hàn
Chung trà đêm, bạn hữu ánh trăng suông
Ngày lặng lẽ, nhìn cỏ cây hoa lá…
Có lẽ biết nghiệp thân phải trả
Vẫn canh cánh bên lòng ni muội lắt leo
Mái đổ, cột xiêu!
Thuyền chống, bè chèo!
Nghe gió thở than nghĩa ân đất Tổ
Cô Tâm Huệ, cô Pháp Hạnh
Theo học, hành xa xôi dặm phố
Chỉ một mình sư cô Từ Nguyên
Phải chong chóng trở xoay
Giờ sư cô Từ Niệm đã tro chìm sông biển bấy ngày
Giọt lệ đã ngủ yên
Nhưng đạo tình còn thức!
Bởi thâm sâu là ước nguyện cỏn con
Khi tạm cư Sơn Thượng Huyền Không
Lúc đáo qua tịnh thất Gotamī
Lời ngủng ngẳng
Ý khô khan
Nhưng trái tim lại vô cùng dịu dàng, mẫn cảm!

Ôi, có lẽ đã tính thời, biết mệnh
Nên nơi vách tường kia
Sư đã viết to hai chữ “giã từ”
Giã từ ai đây?
Giã từ nhân thân?
Giã từ cả thế gian?
Lại còn nói với ai một lời “vĩnh biệt”?
Nếu xung quanh vô tình không hiểu
Sư mỉm cười, “giã” hay “vĩnh” cũng thế thôi!
Suốt đời chẳng muốn làm phiền ai
Nên giấu kín như bưng
Trăm bệnh đang rửa nát hình hài
Lúc thấy khỏe, vẫn đóng bộ tăng-già-lê
Dự lễ chùa này, chùa kia… lạ lùng hết biết
Chỉ nằm lặng vài hôm
Chút hồ cháo, chút thuốc thang là chiếc thân rũ liệt
Cương quyết không đi đâu
Đợi thần chết ghé chơi!
Nằm bệnh viện một ngày
Về lại Thiền Lâm rồi
Trút hơi thở nhẹ nhàng
Bình ốc-xy làm chi nữa
Nằm ngay ngắn, mỉm nụ ngầm vi tiếu
Lạ lùng làm sao, thần sắc không hư
Chỉ như giấc ngủ yên, mắt nhắm hiền từ
Thân tứ đại, trả rồi cho tứ đại!
Đúng như câu đối xuất ly tự tại:
“ Âm thầm xả bỏ báo thân,
sinh tử nhẹ nhàng, hương hữu hạnh!
Lặng lẽ giã từ trần mộng,
khứ lai thanh thản, đức vô danh!”

Ôi! Thế là gần năm mươi năm
Khoác y cà-sa màu vàng hoại sắc
Chẳng làm khổ ai
Mà cũng chẳng hại đến cái kiến con sâu
Gót chân sa-môn
Mây trắng trên đầu
Phủi bỏ hình hài đã cũ
Vô danh, vô chủ
Tay trắng hoàn lai
Đã qua rồi, bát nạn, tam tai
Đã qua rồi, cuộc lữ dặm dài
Xin điếu tiễn một bài thơ Đường luật:
“ Hành trạng một đời vô sự nhỉ?
Đến đi, ai hỏi, nụ cười không!
Chẳng chau thế sự, mây đùn núi
Chi bận nhân tình, gió thoảng sông
Sống, ở – tuề tòa, răng cũng được!
Uống, ăn – qua quít, rứa là xong!
Trăm năm lắm chuyện, rầu môi lưỡi
Lẻn tách phương Tây, cánh nhẹ bồng!”

Cầu nguyện cho giác linh, linh thông
Ba-la-mật tròn đầy
Cùng mười phương nước trăng tự tại!
Huynh đệ đạo tình nhớ thương khấp bái!

Làm tại Huyền Không Sơn Thượng
Sơ thu, 3/7 Quý Tỵ
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH