Điếu Văn Cung Tiễn Giác Linh Đại Trưởng Lão Hộ Giác

10/12/2012 | Chuyên mục: THƠ . 1755 Lượt xem

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngưỡng bạch giác linh ngài,

Hỡi ôi!

Vầng nguyệt đã lặn mây!

Hoa đàm vừa rụng suối!

Khoảng lặng tâm hồn chợt mịt mù tăm tối

Một đóa hương hiu hắt rụng đài khô

Có phải chăng cơn gió hư vô?

Thần tán

Thân tan

Sao mờ

Trăng lạnh

Nước về đông, biệt nguồn cô quạnh!

Lá bỏ cành, lìa cội nhớ thương!

Ôi!

Đã thức tri, sinh tử thị thường!

Đành kham nhẫn, khứ lai như mộng!

Cay xót mắt, ân trùm biển rộng

Đớn đau lòng, đức phủ non cao

Ôi!

Tâm sa-môn rạng chiếu muôn sao

Trí bát-nhã ngời soi vạn lối

Thanh thản đến, mây sương để dấu!

Rỗng rang về, cát bụi xoa tay!

Giáo hóa xuân thu, đất Phật trời Tây

Cơm bánh ngàn nhà,

Biết mấy khó khăn, lúc duyên tàn, pháp mạt

Có thực tại hiện tiền

Chẳng phân chia bỉ, thử

Đạo và đời, trái hoa giác ngộ chia chung

Ví như đám mây trắng thung dung

Vì giác liễu mệnh, thời mà xả thân tứ đại?

Bỏ ngoài tai, đếm đo khôn, dại

Quẳng giữa triền, toan tính cạn, sâu

Ôi!

Hàng hàng giáo phẩm

Trưởng lão, Tăng Ni

Tứ chúng, môn sinh

Tùng trúc cúi đầu

Suối sông rỉ lệ

Tin truyền báo năm châu, bốn bể

Tu viện già-lam hoa trắng kết khăn sô

Bậc long tượng đời nay như sao lạnh đêm nhờ

Dần rơi rụng, thế gian buồn thêm nữa

Hạnh ngoài cõi, mấy người nhen lửa

Thuyền giữa dòng, ai kẻ tiếp duyên

Dông bão hung hăng, thiết thạch không sờn

Mưa gió phủ phàng, Tăng bào chẳng động

Chèo mật độ, trời mây lồng lộng

Gậy bồ-đề, phố chợ thong dong

Thế mà hôm nay,

Địa chấn bàng hoàng

Bửu quyến, môn sinh nghẹn ngào, bối rối

Chẳng lẽ chân dung một đời hương bối

Để từ nay đại chúng bơ vơ?

Hỡi ôi!

Hạnh sa-môn

Đâu bến, đâu bờ?

Hỏi chi chuyện cạnh tranh thua được

Sinh tử cuốn, mù mù ác trược!

Thế thời xao, mịt mịt lương tri!

Đuốc tuệ minh, chông vực bước đi

Đèn từ ái, hố gai dò lối

 

Nhớ giác linh xưa,

Thế danh Ngô Bửu Đạt

Quán quê Sa Đéc

Di trú Nam Vang

Từ tuổi thơ, duyên gặp đạo vàng

Bởi căn trí, phúc đưa kinh ngọc

Mới 5 tuổi, đến chùa tu học

Giữ nếp nề, phép tắc, giới nghi

Tập ăn nói, học đứng đi

12 tuổi, thọ sa-di giới pháp

Khất thực xóm làng, tháng ngày ôm bát

Và sớm hôm, kinh chữ chăm chuyên

Học một biết hai, tấn hóa đạo thiền

Đường lớn rộng, duyên đời thắp nến

Mềm mỏng nói năng, thầy cảm mến

Hiền hòa lui tới, bạn yêu thương

Lửa trong ghè cháy đỏ dị thường

Do nhiều kiếp huân tu mật độ

Lưỡi gươm bén rèn tâm gian khổ

Khối đá thô mài ngọc cầm tay

Chí cao vời, hồng hạc vút bay

Không hổ thẹn chức năng sĩ tử

Sách và bút miệt mài kinh sử

Bát với y rong ruổi đó đây

Rồi pháp học, bảng vàng, lần lượt bắt thang mây…

 

Hôm kia,

Tuổi đủ 20, thầy cho thọ đại giới

Từ đó,

Biển lớn rộng, kình ngư thỏa chí

Trời xa cao, linh điểu bền hơi

Ưu hạng Cao đẳng Phạn, Pāḷi khó nuốt, khó trôi

Tiếng Miên, Thái bắt đầu vững chãi

Miến với Anh ngày thêm sành sõi

Vài năm sau tất thảy khá thông

Du học Tích Lan bền sức ra công

Thêm ngữ pháp Pāḷi văn, nghiên tầm ba tạng

26 tuổi, tâm thông, trí rạng

Đãy ta-bà tạm đủ tư lương

Được Trưởng lão Narāda ưu ái, mến thương

Cho theo hầu thông dịch những kỳ thuyết pháp

Tiếng Anh, Pāḷi giờ đã chuyển ngôn lưu loát

Giáo hội Tăng-già góp sức dựng xây

Tại trụ sở Kỳ Viên, rồng hổ cuộn mây

Mở trang sử cho Theravāda đất Việt

Tại Rangoon, Tam Tạng thánh kinh kết tập

Ngài là học giả Tăng

Được thỉnh cử vào ban vấn, đáp Phật ngôn

Là một vinh dự tối cao, khó gặp, khó bàn

Cùng đứng thẳng ngang hàng với Tăng-già thế giới

Phật giáo từ đây, tân kỷ nguyên, tân vận hội!

Di giáo kế thừa, kinh chữ cận nguồn hơn

Ngài cũng là vị Tổng thư ký đầu tiên

Của Giáo hội Tăng-già Nguyên Thuỷ

Tuổi trẻ, tài cao – trí tâm bén rễ

Mẫn cán thừa hành trăm việc làu thông

Thế là chiếc thuyền nan lội thác, vượt dòng

Cùng chư vị tôn túc

Phá thạch khai sơn ươm trồng tùng bách

Năm 1958, học viện Pháp Quang kiến lập

Ngài chuyên tâm đào tạo Tăng tài

Biến cố 1963, tham gia phản kháng Ngô triều

Liên phái uỷ ban – đấu tranh bất khuất

Giáo hội thống nhất, ngài là một yếu nhân tích cực

Chẳng Bắc, Nam, phân biệt hệ tông

Con Phật Thích Ca – chỉ một giống dòng

Chỉ cốt bồ-đề vươn chồi, nảy nhánh,

Vầng trán sử kinh, tuệ minh lấp lánh

Ăn nói có tài, lại sẵn bụng kinh văn

Ngài là một tia cực quang bên cạnh những vầng dương

Xua tan những trở ngăn tối ám

Thắp bình minh cho căn nhà Nguyên Thủy Việt Nam

Còn là trợ duyên cho đại Trưởng lão Minh Châu

Vào buổi đầu,

chuyển dịch những Nikāya, Pāḷi tạng.

Ôi!

Ai liễu thông mưa nắng tiết, thời?

Ai giác tri bão dông nghiệp, mệnh?

Người xưa nói,

Tận nhân lực, tri thiên mạng!

Trong cộng nghiệp có vô vàn biệt nghiệp

Phải biến quyền, lựa cảnh, tìm cơ

Duyên trời Tây, trăm việc sẵn chờ

Bỏ lời tiếng thị phi

Bỏ đàm tiếu khen chê

Lên đường, cưu mang sứ mệnh

Năm 1982, đến Hoa Kỳ trú cư

Do tứ chúng yêu cầu, thỉnh nguyện

Ngài đảm nhận vai trò đầu sóng chèo khơi

Bao khó khăn, nghịch cảnh ngút trời

Vẫn tự tại, an nhiên, nụ cười như thị

Trong thăng trầm, được mất

Giữa sinh diệt, biến thiên

Chẳng nề hà thời thế đảo điên

Lái thuyền lớn trạm nhiên, vô úy

Giáo hội thuở xưa, vẫn một lòng chung thuỷ

Ngồi ghế cao trụ trượng, hoằng dương

Uy đức của ngài, ma quỷ kính nhường

Những trận bát phong

Hóa thành sen vàng cúng Phật

Thời thế ngẫm, làn trăng dọi nước

Nhân tâm suy, bóng trúc vờn sân

Xao xác bay muôn mảnh bụi trần

Phất phơ rụng vạn màu hoa đốm

Chim không cánh hạo nhiên tung lượn

Cá chẳng vây hào sảng vẫy vùng

Ôi!

Suốt một đời xem nhẹ tai ương

Đạo pháp trọng, tợ đầu lông vũ trụ

Như rồng ẩn giữa loạn cuồng tinh tú

Như đuốc đêm soi tỏ mặt người

Ngót trăm năm tư cách cao vời

Hạnh muôn việc chẳng bàn vô, hữu

Con chữ, câu văn bình dân dễ hiểu

Giảng pháp, dạy thiền như uống nước, ăn cơm

Nụ cười trong tâm dịu nhẹ lan thơm

Mà đạo nghiệp bền sâu thiết thạch

Dẫu cuồng vọng đốt kinh, đốt sách

Tìm tàn tro xá-lợi ở nơi đâu?

Lửa tắt rồi, giá lạnh cả tinh cầu

Buông ngọn bút, muốn xóa ngay hàng chữ

Thiền công án, chỉ một bàn tay cũng vỗ

Bịt miệng nói năng, lời chân đế không hoa

Huyễn mộng còn cả gan trêu cợt sa-bà

Bập bùng cháy thức tri cát bụi

Tâm trung đại đạo, nào thưng đấu?

Thế ngoại cao nhân, há xét lường?

Biết bao người khôn xiết vấn vương

Hoa cỏ núi, rừng ngàn sương ướt

Xót xa lắm, cỗi tùng già bật gốc

Tàn tán che đất Phật biết tìm ai?

Cầu nguyện giác linh, ba-la-mật kết đài

Trăm trượng buông tay, duyên tùy vô ngại

Hàng hàng hậu học sa-môn

bi thương khấp bái!

 

 

Làm tại Huế, Việt Nam, 10/12/2012

Chùa Huyền Không Sơn Thượng

Tỳ-khưu Giới Đức

(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)