Một cuộc đời một ngôi sao

17/09/2012 | Chuyên mục: SÁCH . 59359 Lượt xem

BÓNG TỐI HOÀI NGHI

 
 

N

hư lời cầu nguyện trước đức Brāhman, các thượng đẳng thần, ông Vaṅganta cho xây dựng một công trình bảo tháp nguy nga đồ sộ.

Suốt hai năm ròng rã, tiền của đổ ra như nước của con sông Indus để hoàn thành công trình tạ ơn thiêng liêng này! Ông Vaṅganta cho mời những tay thợ tài ba, tinh xảo nhất từ thành Vương Xá. Vật liệu quý giá, chắc bền và đẹp đẽ. Những phù điêu, những hoa văn chạm trổ có giá trị nghệ thuật cao được đặt mua khắp nơi trong nước. Những mặt hàng đá chạm nổi người, hoa lá, linh thú, linh điểu, linh thần là những tác phẩm tuyệt vời của những điêu khắc gia hữu danh, vô danh cặm cụi từ tháng này sang tháng nọ. Những tấm gỗ chiên đàn, dạ hương ghép làm tường trong, làm trần cũng là những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Những đồ thờ, khí dụng bằng đồng, bằng vàng, bằng bạc được đặt mua từ Trung Hoa, Ba Tư, Ả Rập hoặc tại những danh gia cổ kính còn lưu giữ được.

Bà-la-môn Vaṅganta muốn để lại cho hậu thế, dòng tộc và cháu con một bài học vô ngôn về đức tin và lòng tri ân nên ông chẳng ngại tốn kém. Tất cả các thầy thợ được trả công hậu hĩ và hằng trăm người phụ việc mỗi ngày luôn luôn rộn lên những tiếng ca, nụ cười, niềm vui bay phơi phới.

Công trình hoàn thành là ngày vui lớn nhất của ông, của dòng họ, thôn làng và môn đệ. Lễ lạc thành khánh hỷ diễn ra trong bảy ngày, tiệc tùng ăn uống linh đình. Hàng ngàn người được mời đến hoặc không mời đều được đãi đằng tươm tất, trọng hậu. Ðây cũng là dịp để ông chứng tỏ uy tín, địa vị, danh vọng cùng khí độ của một bậc trưởng giáo đạo cao, đức trọng.

Suốt mấy ngày liên tục, đêm nào cũng có biểu diễn văn nghệ. Những hí khúc, vũ khúc do một gánh hát nổi danh đảm nhận được mời đến từ kinh thành Vương Xá. Các tuồng hát mà nội dung được rút ra từ kinh Vệ Đà, từ một vài tiểu mục trong tác phẩm “Anh hùng trường ca” đã được diễn một cách sống động, có đệm nhạc mang âm hưởng huyền bí. Những nhạc công sử dụng trống Mridanga, kèn hình rắn, đàn Tanbura, đàn Vīṇa… đều là những nghệ nhân kỳ tuyệt, đã phối hợp một cách thiên tài các vi âm để tạo nên các khúc Raga, những chuỗi Raga, thành kính dâng lên Thượng Ðế làm xúc động lòng người.

Upatissa đã mất cả ý chí, quên cả bản ngã khi lắng nghe. Vật thể, không gian và cả thời gian như hòa làm một. Tâm thần như chìm ngập vào cõi miền bí ẩn, vô danh và an tĩnh… Chàng nhớ mãi khoảnh khắc đó tương tự những khoảng khắc chàng nhập định, xuất thần mà cái tiểu ngã ti tiểu, bé mọn đầy những ưu tư, phiền não… được hòa tan vào đại ngã! Còn tất cả, chàng đều muốn quên. Quên tòa bảo tháp, quên những câu chuyện có vẻ uyên bác, thâm thúy của các hàng cha chú, các danh sĩ bà-la-môn. Quên những lời chúc tụng sáo rỗng dường như là các hoa ngôn, xảo ngữ… chỉ còn dính ở đầu môi, chót lưỡi. Ðiều làm chàng xúc động nhất, muốn quên nhất là tiếng rống, tiếng la của hàng trăm súc vật bị hy sinh để tế thần. Chàng muốn bịt tai lại, nhắm mắt đi trước những hình ảnh máu me, những đôi mắt ứa lệ, thống khổ… của những sinh linh vô tội.

“- Ôi! Nếu Thượng Đế, nếu Ðấng Ấy là Vô Ngã, là Thần Hóa, là Ðại Ngã, là Nhất Nguyên, là Bản Thể Vũ Trụ hay Tuyệt Ðối Vô Nhân… mà còn cần những máu me, xác chết sinh linh kia để cúng tế cho mình; cần những khổ đau thống thiết kia mới có niềm vui thì trách gì cháu con ngài đang sống trong nhầy nhụa, tanh hôi của chém giết và hận thù? Một thời đại kế tiếp một thời đại, một trang sử khép lại một trang sử, một vinh quang kế tục một tủi nhục, một văn minh nối tiếp một suy tàn là nơi diễn ra những đấu trường đẫm máu, những tàn sát khủng khiếp, những bạo hành vô nhân tính, những âm mưu ác độc, tàn tệ thì đấy cũng nằm trong định luật của ngài? Tất yếu của ngài? Tự do tối thượng của ngài?”

Upatissa đứng lên, chàng lặng lẽ đi vào rừng. Một nỗi buồn mênh mông làm chàng cơ hồ không chịu nổi. Chàng đã gặp Kolita ở đó. Cả hai lặng lẽ nhìn nhau. Ðôi mắt họ cùng ứa lệ. Họ hiểu nhau. Họ biết nhau. Không ai cần thiết phải nói năng.

Khu rừng buổi chiều im mát, gió lồng lộng thổi. Họ nằm dài trên cỏ, vắt tay lên trán và không muốn suy nghĩ điều gì. Nhưng trí óc họ không yên. Từng đợt sóng xao động, chìm sâu rồi xao động trở lại. Tiếng ca đâu đó của những kẻ du mục vọng lại rất buồn, man mác, hư vô. Dường như trong tiếng ca đó có bóng dáng của những kẻ lữ hành lầm lũi giữa sa mạc, lầm lũi phong trần giữa cuộc đi, cuộc về, cuộc đến? Họ và chàng đều giống nhau: Một thân phận lưu đày tại thế, lạc lõng, bơ vơ trên miền đất hoang vu, bất toàn của Thượng Ðế.

– Ðệ nghĩ gì hở Kolita?

Upatissa thẩn thờ cất tiếng hỏi.

Kolita lắng nghe tiếng ca của kẻ du mục đã loãng xa trong gió, đưa mắt nhìn lên vòm trời sau những kẽ lá; lâu lắm mới đáp:

– Ðức Brāhman không toàn thiện. Thượng Ðế không toàn thiện. Ở đấy cũng trống không, hoang vu và đau khổ. Ngài còn tìm kiếm niềm vui và còn cầu mong sự ngưỡng mộ, cúng tế máu súc vật của cháu con ngài! Sự toàn năng, đại bi và siêu việt của ngài cần phải xét lại!

Upatissa cười khẽ:

– Vậy từ lâu chúng ta đi tìm một đấng không toàn thiện ư?

– Phải! Không những chúng ta mà cả tổ tiên, dòng họ chúng ta từ đời này sang kiếp nọ, người mù dẫn theo người mù. Và cứ thế, đoàn người nối dài đến vô tận. Ði, mà chẳng biết đi về đâu! Hư vô và vực thẳm đang chờ đợi chúng ta ở phía trước!

Upatissa nghe nhói đau ở lồng ngực. Phải! Ðiều mà chàng không muốn nghĩ đến, muốn khỏa lấp đi thì Kolita đã nói ra. Cõi trần này sinh tử quyện lẫn vào nhau. Vui buồn, thiện ác, vinh nhục, xấu tốt nương dựa nhau mà tồn tại. Vậy thì toàn thiện nằm ở đâu giữa những tương tranh nhị nguyên, lưỡng giá bất toàn?

“- Ôi! thế giới Māyā huyễn hóa! Giữa cái điêu tàn, ngươi cho mọc lên một nụ xanh. Giữa bàn tay hủy diệt của đức mẹ Kālī, một sơ sinh nhú ra từ nụ cười của đấng sáng tạo Brāhmā! Thế nghĩa là gì, hỡi ngươi, hỡi Māyā kinh khiếp?”

Upatissa đau xót nhìn bạn, thở dài. Sự có mặt của chàng trên đời này cũng vậy, cũng do sự bất toàn của ngài! Chàng không hiểu gì cả. Phải chăng các thượng đẳng thần cảm thấy mình được tôn trọng, được cúng tế hậu hĩ nên đã làm sớ tâu lên đấng Brāhman; và ngài đã bằng lòng rứt ra từ cái Ðại Ngã của mình một cái Tiểu Ngã để quẳng cho gia đình chàng theo với mong cầu, sở nguyện của họ? Rồi sau chàng, các tiểu ngã khác, các em chàng đã lần lượt ra đời: Cunda, Upasena, Revata, Cālā, Upacālā, Sīsupacālā. Ðức Brāhman đã ban cho gia đình chàng quá nhiều ân huệ!

Những khi không tìm ra lý giải cho những câu hỏi xoắn xít, trùng trùng; khi mà các ưu tư, hoài nghi và buồn nản làm cho bấn loạn tâm hồn, Upatissa bèn rủ Kolita du sơn ngoạn thưởng. Họ muốn quên chúng đi.

Upatissa với hơn một trăm chiếc võng và hơn một trăm môn sinh. Kolita với hơn một trăm cổ mã xa và hơn một trăm môn đệ. Họ mang thức ăn cho nhiều ngày và đi khắp các nơi danh lam thắng cảnh trong vùng.

Giữa thiên nhiên, đất trời hùng vĩ, cỏ cây và sông núi hữu tình, họ thấy tinh thần được xoa dịu, mát mẻ. Nhưng nhu cầu hiểu biết không cho phép họ được nghỉ ngơi lâu dài. Họ lại học những bài học ngoài trời, thực nghiệm một số hiểu biết từ sách vở. Các môn học về địa lý, phong thủy, tự nhiên học làm cho họ mê say không khác gì những môn học về tâm linh. Dịp này, cả mấy trăm môn đệ được hai vị đạo sư trẻ tuổi khả kính của họ giảng dạy một cách cụ thể, thực tiễn, phong phú và sống động vô cùng.

Tuy nhiên, không bao lâu, nỗi buồn lại đến. Bỏ đám môn đệ, họ bách bộ bên nhau, đi ra xa. Ở đâu đó vẫn còn tồn tại một cái gì chưa giải quyết được. Truyền thống ngàn đời kinh viện, từ chương, cúng tế, cầu nguyện lẫn những môn học thâm sâu uyên bác này… cũng không thỏa mãn được chàng.

– Hiền đệ yêu mến! Rỗng không làm sao là cuộc đời này. Sở học của chúng ta không mảy may đem lại một ổn định tâm hồn. Càng học hỏi, hiểu biết, dầu các môn học thuộc về tâm linh đạo học hay thế học, trí óc chúng ta như rơi vào những đám tơ vò, các màng nhện chằng chịt xoắn rối, mâu thuẫn và không tìm ra đầu dây mối nhợ. Vẫn sừng sững tồn tại những bất khả tri, những bóng tối bất khả kiến giải. Nơi chân trời của Ðại Ngã, của Brāhman dường như vẫn hiện hữu hư vô, bất toàn và phi nhân tính. Vệ Đà có nghĩa là tri (biết), nhưng lại đầy đặc cái bất khả tri! Còn những cái tri ấy, những tri thức về thánh ca, tri thức về giáo điều Samadeva, tri thức về cầu khấn, tri thức về thần chú, những Mantra, những Aranyaka… thì chẳng nên đáng “tri” một chút nào. Những cái tri ấy giúp ích gì cho chúng ta? Hay càng học, càng tri chừng nào chúng ta càng ngu dốt, cuồng tín, bản ngã, kênh kiệu, đa văn để hình thành một tập cấp lãnh đạo tinh thần, bá chủ tinh thần, nắm độc quyền sứ giả của thần linh để vinh thân phì gia, để thao túng xã hội và bóc lột đám tiện dân nghèo khổ? Ôi! Ta không còn hiểu gì nữa, không còn biết “tri” cái gì nữa! Ta đã quá rối loạn, bất lực trước Thượng Ðế vô tri, mù mênh phi lý và khói sương độc hại!

Thanh niên Kolita cúi đầu, mắt đỏ lệ, mờ sương. Những ưu tư, băn khoăn của Upatissa cũng là những ưu tư, băn khoăn của chàng. Kolita nhìn lên bầu trời trong xanh có những đám mây trắng trôi bàng bạc. Tiếng cười đùa hồn nhiên của môn sinh bên kia suối vẳng lại. Một con bò đủng đỉnh, yên lặng gặm cỏ dưới chân đồi. Một cô gái chăn dê cất tiếng hát véo von bên kia triền thung lũng. Một đám hoa dại bé bỏng phô những nụ hoa li ti, khiêm nhường, rực rỡ sau cụm đá bạc đầu…

Ôi! Cảnh vật xung quanh yên lặng, thanh bình, đại toàn và tuyệt bích như thế mà tâm trí chàng thì cứ để đâu, có nhìn thấy mà cũng như không, bởi chàng đang rối loạn vì tư tưởng lợn cợn, đục vẩn ở trong đầu.

– Hiền huynh yêu quí! Kolita nói mà đôi mắt như chìm đắm ở một khoảng vô danh, xa mờ – Ðấy cũng chính là những điều mà đệ hằng suy nghĩ. Tất cả đều vô ích, vô vọng và phù phiếm thế nào. Tất cả đều rỗng không, bất lực và bất toàn. Chúng ta đã học, đã đọc, đã biết hết rồi tất cả trí khôn, sự mẫn tuệ, thông bác của tiền nhân, của loài người. Nhưng sự hiện hữu của một hạt bụi cũng không giải thích được, cũng là bất khả tri! Chỉ là những giáo điều mặc khải, những thánh thi vớ vẩn, tối tăm, ngu ngốc và xuẩn động. Hiền huynh hãy nghe đây!

Và Kolita đã ca lên, đã hát lên giữa bầu trời cao xanh lồng lộng:

Thuở ấy…

Vị đó không vui, không buồn
Chẳng biết vô tình hay cố ý
Cái Ðộc Nhất sinh ra
Trải ra thăm thẳm
Vô biên,
Hư vô và mềm mại

Tấm lụa xanh trên nền trời
Bỗng làm nên hiện hữu
Pati và Patnie ôm hôn nhau
Tình yêu xuất hiện
Đau khổ có mặt
Tinh tú và nhật nguyệt
Ngày và đêm

Thảng thốt bàng hoàng!
Hỡi các đấng Thần Linh Yên Tĩnh
Mẹ của Thiên Ðạo
Mẹ của Bất Diệt
Thần Lửa, Thần Rạng Ðông
Luống cày,
Và Thần Indra giông tố
Sự chết và hy vọng
Mầm cây và hủy diệt
Không ai sáng tạo ra ngươi!
Cái Ðộc Nhất hiện hữu
Cái Vô Nhị hiện hữu
Bỗng làm nên tất cả
Bởi ý chí hỗn mang
Tối tăm và sáng láng
Và đấy là Māyā
Aum, Aum, Aum!”

Hát xong, Kolita thốt lên:

– Cái gì vậy? Cái thánh ca vớ vẩn kia là gì vậy? Ngu xuẩn!

Trong khi Kolita hát, Upatissa đăm đăm nhìn bạn. Trong đôi mắt ấy có hai ngôi sao bừng cháy, sâu thẳm, xa vời vợi. Upatissa không nghe lời ca mà chàng chỉ nghe âm hưởng, tiết điệu; sự tuôn trào những cảm thức, cảm tính bơ vơ, nóng hổi! Chúng như là những thực thể trần truồng, đam mê, thống hận, kêu gào nhảy múa bên bờ vực thẳm của thần Rāgu!

Ôi! Nhưng đấy cũng chính là những cảm thức, cảm tính của chàng! Chúng cũng bơ vơ, nóng hổi và thác loạn như thế. Nhưng, sự phẫn nộ ấy cũng là những gọi kêu vô vọng, chỉ chứng tỏ sự bạc nhược, ủy mị của tâm hồn. Phải tỉnh táo, uy dũng mà đứng lên. Phải có niềm tin. Không còn niềm tin nơi Thượng Ðế thì phải có niềm tin nơi chính mình. “Bất hạnh thay là những kẻ đã mất hết niềm tin trên cuộc đời này!”

– Này, hiền đệ Kolita! Hãy nhẫn nại! Hãy tỉnh táo! Upatissa nắm tay bạn, ân cần nói – Tại chúng ta ngu si và bất lực chăng? “Tat tvam asi” . Ngươi là Cái Ấy, Ngươi là Ðấng Ấy, Ngươi là Chân Như! Vậy thì thượng-đế-tính, đại-ngã-tính, siêu-việt-tính ấy có sẵn trong ta. Nó ở trong ta, nhưng Cái Ấy không phải là xác và hồn, không phải là thân thể vô tri hoặc tư tưởng và tinh thần ranh ma quỷ quyệt! Vì hỗn mang, vì tối tăm, vì si mê dục vọng mà chúng ta đã không thấy ngài chăng? Chúng ta đã tự xa ngài chăng? Sự phẫn nộ và bất tín có lý chăng khi chúng ta chưa tra xét bản thân cho đến tận cùng? Tồn Tại, An Tĩnh, Tri Thức, Chân Phúc là Một. Có tri thức mà chưa có An Tĩnh, nghĩa là còn rối loạn thì ta chưa thể hội nhập được với ngài. Vệ Đà cũng đã từng dạy như vậy và đệ cũng đã từng hiểu như vậy mà! Cái thuần nhất, cái độc nhất, cái vô nhị ấy, cái ở ngoài hồn và xác ấy, cái ở ngoài thân thể và tư tưởng ấy là ẩn số mà ta cương quyết phải tìm, phải bỏ hết cả cuộc đời để săn đuổi chúng. Chúng ta chưa đi thật sự bằng hai chân của mình, nghĩa là bằng kinh nghiệm, khổ đau trần trụi và tim huyết nóng hổi! Chúng ta chỉ mới đi bằng đầu óc, bằng lý luận, thẩm sát, bằng chữ nghĩa vô hồn và bằng mớ tri thức luận nhạt nhẽo! Chúng ta cũng chớ vội khinh bỉ thánh ca, thánh thư và thánh triết. Vì chúng chỉ là sự gợi ý, là ngón tay chỉ mặt trăng, là chiếc chìa khóa vô hình để chúng ta tự mở cánh cửa huyền mật của tâm linh. Bao giờ chưa mở được, chúng ta còn ra đi. Phải củng cố lại niềm tin, dầu là niềm tin le lói!

Kolita đứng dậy, đôi mắt như phủ một làn sương mỏng long lanh. Chàng đã khóc. Sự chân thành và trung thực của lòng mình đã đẩy chàng đi quá xa. Upatissa cũng không khác nhưng chàng đã trấn tĩnh được!

Không ai dám thú nhận sự bất lực của mình trước đám môn sinh bởi cả hai vốn là bậc thầy ưu tú, cao cả, minh triết trước mắt mọi người và trước xã hội.

Có một tiếng gọi, một thúc bách, một kêu réo ở phía bên trong: “Hãy thật sự lên đường đi thôi!”