Một cuộc đời một ngôi sao

17/09/2012 | Chuyên mục: SÁCH . 59142 Lượt xem

 

HAI NGƯỜI ĐỆ TỬ

 

S

au khi đức Phật nhận lời khu Rừng Tre của vua Bình Sa dâng cúng; ngài cùng với môn đệ bộ hành đến tận nơi chiêm quan thắng cảnh Trúc Lâm nổi tiếng. Ðức Phật đứng trên đồi cao nhìn lướt qua một vòng. Kia là những dãy núi xanh xanh bao quanh, nọ là những con suối trắng xóa vắt ngang, vắt dọc như dải lụa. Từng đám cây xanh đậm nhạt ẩn trong nhau, xen kẽ nhau; điểm giữa là những vùng lá vàng, lá đỏ đậm sắc, nổi bật như bức tranh vẽ của con người.

Ðến gần hơn, đi luồng vào trong rừng thì trúc không phải là loài cây duy nhất. Cả một rừng nhiệt đới phô bày dáng cây, dáng lá, màu vỏ cây, màu hoa phong phú trông thật ngoạn mục. Những con đường không biết tự bao đời ẩn hiện thấp thoáng, bò men bờ suối, chìm khuất đâu đó lại tiếp nối dưới chân đồi xa. Suối chảy róc rách, uốn lượn đó đây, tạo thành vũng, thành hồ rồi bình yên lặng lẽ đi qua đám cỏ lục xanh rì. Chim đua hót vang rân. Nai hồn nhiên gặm cỏ. Thỏ sợ hãi nhảy vút qua nấp trong bụi rậm. Và ô kìa! Thiên hô vạn hát là sóc! Sóc tía, sóc đen, sóc vàng, sóc nâu, sóc rằn ri, sóc ngũ sắc với những cái đuôi phồng lên, với những đôi mắt tho ló, rụt rè nhìn đức Phật và Tăng chúng đi qua.

Ngồi lại trên một phiến thạch bàn, đức Thế Tôn nói với môn đệ:

– Này các thầy tỳ-khưu! Giáo pháp của Như Lai vừa xuất hiện ở trên đời như một luồng gió mới, như tiếng sấm gióng lên trong trời mưa. Nhưng đã từ lâu lắm rồi, giáo lý truyền thống bà-la-môn đã bưng tai, bịt mắt mọi người trong phúng tụng, đàn tế và cầu nguyện nên không dễ gì ai cũng nghe được pháp mầu Bất Tử. Những tu sĩ bà-la-môn đã kết hợp với nhau thành một giai cấp đầy thế lực, nắm giữ độc quyền liên hệ với thần linh; nắm giữ độc quyền đám ma, nghi lễ, cúng tế; thao túng mọi sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng; đã dìm con người trong mọi thứ buộc ràng, nô lệ nên thật khó xiễn dương một giáo pháp tôn trọng tự do, giải thoát cho con người.

Này các thầy tỳ-khưu! Những cây cối, chim chóc, nai, thỏ, sóc trong khu rừng Trúc Lâm này quả thật là trù phú và thạnh mậu. Ðất, nước, không khí trong lành này đã nuôi dưỡng chúng, đã làm cho chúng được tự do phát triển và lớn mạnh. Cũng vậy, muốn đem đến an vui và hạnh phúc cho chúng sanh thì giáo pháp phải có nơi làm cơ sở! Giáo pháp ấy phải có đất, nước, không khí trong lành làm nhân, làm duyên hỗ trợ để nuôi nó lớn lên, nuôi nó trưởng thành vậy.

Này các thầy tỳ-khưu! Như Lai tuyên bố rằng: Mảnh đất nầy là cơ sở đầu tiên ấy. Tại đây, Như Lai sẽ đợi chờ nhân duyên cho giáo pháp được trọn vẹn, toàn hảo. Một giáo pháp được gọi là trọn vẹn, toàn hảo không phải chỉ có một mình Như Lai và hơn một ngàn thầy tỳ-khưu như vậy đâu.

Lời tuyên bố của đức Phật, hôm ấy, chư tăng không hiểu hết ý nghĩa. Qua ngày hôm sau, vua Bình Sa, thân quyến và tùy tùng tìm đến vấn an, đảnh lễ dưới chân đức Phật rồi ngõ ý thỉnh đức Thế Tôn và tăng chúng an cư mùa mưa ở đây. Ðức Phật im lặng nhận lời.

Vua Bình Sa hoan hỷ phát tâm làm công đức, như bổn phận của vị Thánh đệ tử, xin được kiến thiết, xây dựng toàn bộ Trúc Lâm để đức Phật và tăng chúng có chỗ để an cư.

Một vị quan đại thần lão niên, bên cạnh vua Bình Sa kính cẩn thốt lên:

– Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử là quan coi về thiên văn, địa lý, phong thủy. Từ lâu, đệ tử biết rằng, đây là mảnh đất có khí tượng siêu phàm, phi đức Thế Tôn và tăng chúng, không ai ở được. Ở đây, núi long, núi hổ, thiên tinh, đế tinh, kim tinh… tất cả đều chầu về, qui phục. Giáo pháp của  đức Tôn  Sư, lấy đây làm căn cứ địa thì phạm thiên, chư thiên, ma vương, dạ xoa, la sát, vua loài người, giáo phái chủ, giáo phái sư, khắp nơi trong toàn cõi châu Diêm Phù Đề phải qui chầu hết thảy! Lành thay! Ðệ tử cung kính chúc mừng giáo pháp vô thượng.

Chư tăng có vị mỉm cười, có vị gật đầu lặng lẽ. Vua Bình Sa hỷ lạc dâng lên bừng bừng, quát yêu người bề tôi trung tín:

– Thôi vừa rồi, thôi đủ rồi! Ðức Thế Tôn và tăng chúng bác học, đa văn còn biết nhiều hơn,  hơn cả vô lượng cái đầu óc nhỏ nhoi, bé tí của tất cả ông thầy địa lý như ngươi cộng lại! Ðừng có bép xép, múa môi cái tài phong thủy không đáng nửa đồng xu! Mau mau cùng với đám thuộc hạ đi đo đạc, thiết kế, chọn chỗ thích đáng để xây dựng tịnh xá cho đức Thế Tôn! Rồi nơi nào là nhà giảng, nhà hội, trai phòng, tịnh phòng, liêu thất, nhà tắm, nhà vệ sinh, rừng hoa, rừng cảnh, đường kinh hành, rừng cây thiền duyệt… mỗi mỗi phải hoàn bị, đầy đủ, tươm tất, tiện nghi, khang trang, thoáng mát, ấm cúng, trang nhã! Nhưng hãy lưu ý đây: Có nghệ thuật nhưng nghệ thuật ấy phải giản dị, có công phu nhưng công phu ấy không được rườm rà, quá tỉ mỉ. Tinh thần chỉ đạo của toàn bộ nghệ thuật kiến trúc ở đây là: Phải mới mẻ, không được lặp lại hoặc bắt chước từ nghệ thuật truyền thống, cũng không được lai căng! Cao hơn nữa, đây là tài sáng tạo của các ngươi: Tinh thần nghệ thuật ấy phải toát ra được sự êm đềm, tĩnh lặng, thanh thoát, giải thoát và cao nhã… như chính giáo pháp, như là đời sống thánh hạnh của đức Thế Tôn và tăng chúng vậy.

Và hãy nghe cho kỹ đây: Tất cả công trình xây dựng ấy phải hoàn thành trong vòng hai tháng, trước mùa mưa! Nếu không xong, trẫm sẽ lột mũ, gõ đầu, đuổi về quê quán mà làm nghề kiến trúc và địa lý!

Quả thật là kiến thức của một ông vua tài trí và hùng mạnh, lại là một bậc thánh đệ tử có bụng dạ nhân từ; nên lệnh ban ra, vị kiến trúc sư kiêm nhà thiên văn, địa lý kia hoàn toàn vâng phục chấp y, chẳng dám đưa ra được một lời nào nữa để góp ý.

Trúc Lâm tịnh xá đúng là căn cứ địa đầu tiên của Phật Giáo, là nơi tiền trạm, để từ đó, phát triển giáo pháp khắp các quốc độ. Ðức Phật nhận lời an cư mùa mưa ở đây, ngoài việc tiếp độ cho vua Bình Sa và quần thần, lại còn cố ý chờ đợi… hai người! Có hai người này như cánh tay phải, cánh tay trái của ngài, bánh xe pháp mới được chuyển luân xa rộng và viên mãn.

Hôm ấy đức Thế Tôn đang ngồi trên bảo tọa, tam chúng (1) đoanh vây, thời pháp chấm dứt, ngài nói với mọi người:

– Này các thầy tỳ-khưu! Này hai hàng cận sự nam nữ! Như Lai đến Ma Kiệt Đà (Māgadha) không những chỉ có nhân duyên với vua Bình Sa (Bimbisāra), là một hộ pháp đắc lực khuông phò giáo hội, mà còn có ý chờ đợi một nhân duyên khác nữa. Vậy thì hôm nay, ở đây, Như Lai sẽ tiếp nhận thêm hai đóa hoa kỳ tuyệt, hai ngôi sao sáng, hai nhân cách ưu tú nhất của giáo pháp. Nhân duyên ấy đã chín muồi, đã tròn đủ. Các ngươi hãy nhìn xem! Hai thanh niên đạo sĩ Upatissa và Kolita cùng hai trăm năm mươi đồ chúng đang đến trước cửa của khu rừng.

Quả nhiên, khi đức Thế Tôn vừa nói xong, Upatissa và Kolita đã vào đến tịnh xá Trúc Lâm, theo sau là môn đệ bước đi thứ tự, trang nghiêm, lặng lẽ.

Cả hai cung kính đến đảnh lễ dưới chân đức Ðạo Sư rồi ngồi xuống một bên. Các đệ tử đi sau cũng làm như thế, và ngồi rải rác khắp đó đây.

Upatissa và Kolita đồng thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Chúng đệ tử lang thang đã lâu nay mới về được quê nhà. Xin đức Thế Tôn cho chúng đệ tử thụ giáo, quy y Tam Bảo, ở trong hàng tăng chúng để cùng được hạnh phúc đi trên con đường chánh giác.

Ðức Phật đáp:

– Nầy các thầy tỳ-khưu! Hãy lại đây, tỳ-khưu! (Etha Bhikkhave) Như Lai cũng đang đợi chờ các ngươi. Khi pháp bảo đã thấy rồi thì đời sống còn lại của một sa-môn thánh đệ tử là những tháng ngày thiêng liêng và đạo hạnh trong sạch để lợi ích cho mình, cho chư thiên và loài người.

Khi đức Thế Tôn vừa gọi: “Etha Bhikkhave!” thì Upatissa và Kolita đã đầy đủ y bát, tướng hảo quang minh, đúng phong độ là hai bậc thượng thủ của giáo hội, và sau khi đức Thế Tôn nói vài lời tóm tắt, ngắn gọn về Con Ðường, cả hai liền nắm vững căn bản pháp bảo, tâm trí thông suốt.

Lại một lần nữa, cả hai quỳ bên chân đức Ðạo Sư với vô vàn sự tri ân cao cả. Từ đây Upatissa được gọi tên là Xá Lợi Phất (Sāriputta) và Kolita được gọi tên là Mục Kiền Liên (Moggallāna).

Ngay vào buổi chiều hôm đó, đức Phật cho gọi Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến bên rồi bảo:

– Trúc Lâm tịnh xá cho đến hôm nay đã rất đông tỳ-khưu và cũng đã rất nhiều người đắc được quả cao nhất, như vậy, giáo hội tạm thời vững mạnh. Nói tạm thời vững mạnh vì Như Lai vẫn chưa có được người trợ thủ khả dĩ thay mặt Như Lai để lo Phật sự, tăng sự cùng thuyết pháp, giáo giới đến chư tỳ-khưu cùng các hàng cận sự nam nữ!

Hiểu ý đức Phật, cả hai cùng quỳ xuống. Ðức Mục Kiền Liên thưa:

– Xin đức Thế Tôn cho đệ tử đến ngụ cư nơi một ngôi làng vắng vẻ, tịch mịch cũng gần đây thôi. Ðệ tử biết là phải làm gì cho tròn bổn phận.

Ðức Phật im lặng nhận lời rồi nói với Xá Lợi Phất rằng:

– Còn ông, hãy cùng đi với Như Lai đến một chỗ khuất tịch nhất. Cũng như Mục Kiền Liên vậy, ông cũng còn một phận sự phải làm và phải hoàn thành. Cả hai ông phải đặt bàn chân cuối cùng lên mảnh đất Bất Tử. Ðấy cũng là ước nguyện của Như Lai!

Ðức Phật lại nói với Mục Kiền Liên:

– Ông cương quyết hành trì cho đắc đạo quả A La Hán, điều ấy là phải lẽ, là xứng đáng, là việc đầu tiên cần phải làm. Tuy nhiên, sẽ có những trở ngại trên lộ trình ấy. Khi nào khó khăn nhất, cơ hồ không vượt qua nổi, lúc ấy Như Lai sẽ có mặt ở một bên.

Dặn dò thế xong, đức Phật dẫn ngài Xá Lợi Phất ra đi. Ngài bộ hành đến một hang động tịch liêu tên là Sūkarakhataleṇa, tức là Ðộng Heo, và thường ngày cùng với đức Xá Lợi Phất vào kinh thành Vương Xá để khất thực. Có phải đức Phật muốn chỉ dạy riêng về những điểm thâm sâu, tế nhị cho bậc Tướng quân Chánh pháp trong tương lai chăng?

Ðức Mục Kiền Liên sau khi từ giã đức Ðạo Sư và Xá Lợi Phất, ngài đến ngụ tại ngôi làng Kallavāta, cách thành Vương Xá không bao xa. Ngày ngày ngoài việc khất thực, hầu hết thì giờ ngài để dành cho thiền định, tuệ quán, là phận sự duy nhất còn lại.

Ðúng một tuần sau thì lười biếng, hôn trầm, mệt mỏi và dã dượi đồng loạt kéo đến, ngài phải ra sức kiên trì để chống chọi. Ðức Phật biết rõ tình trạng nầy, đã xuất hiện kịp thời để dẫn giải cho ngài Mục Kiền Liên các tầng bậc của thiền định, những pháp che lấp cần phải vượt qua, phải chiến thắng. Tuy nhiên, thế vẫn chưa đủ, còn có những cảm thọ vi tế của hỷ, của lạc, của xả, của thuần tĩnh nhất tâm, của không, của thức, của tưởng… Tất cả đấy lại phải dùng đến tuệ quán để thấy rõ. Tuyệt đối không được an trú một pháp nào và cũng không được bỏ quên một pháp nào. Tất cả đều phải được nhìn ngắm trong suốt, trọn vẹn, trạm nhiên và hư tĩnh.

Do nhờ trí tuệ và tinh tấn, không bao lâu sau, chỉ vào buổi chiều ấy thôi, ngài đã dễ dàng chứng quả cao nhất là A La Hán quả. Ðồng thời chứng đạt luôn năm thắng trí, năm thần thông, là pháp của bậc thượng nhân.

Từ đây, đức Mục Kiền Liên đã đủ điều kiện để làm một vị đại đệ tử.

Còn ngài Xá Lợi Phất thì thường ngày hầu cận  đức Tôn Sư mà chẳng được ngài nhắc nhở, khuyến khích gì về đạo quả tối thượng ấy. Trên đường đi khất thực hoặc những khi ở trong hang động, đức Ðạo Sư thường lặng lẽ, tỉnh giác, chánh niệm, bao giờ cũng tự tại, định tĩnh như Tu Di (Sineru) sơn. Thỉnh thoảng, đức Phật nhập đại định rất sâu, khí an tĩnh và hào quang tỏa sáng, dịu mát cả một vùng. Thế đấy, ngài dường như đang thuyết pháp vô ngôn, hiện tiền, giản dị và sống động nhất. Năm bảy lần gì đó, đức Phật có nói chuyện, nhưng nói về những điều không cao siêu gì lắm!

– Nầy Xá Lợi Phất! Giáo pháp mà Như Lai thuyết, giáo pháp ấy gốc nó ở đâu?

– Bạch đức Thế Tôn! Nó ở tâm!

– Nói gần hơn một chút.

– Nơi hơi thở!

– Gần hơn nữa!

– Sát-na tâm!

Ðức Phật chẳng nói những kiến giải đó đúng hay sai, ngài chỉ im lặng và dường như ngài có mỉm cười rất nhẹ, thế thôi.

Một lần khác, trên đường khất thực trở về, đức Phật nghỉ chân dưới cội cây, nhìn ra xa với cây cảnh, đồi núi, suối khe trước mặt rồi ngài nói:

– Này Xá Lợi Phất! Hãy hướng tầm mắt ra ngoài xa kia, nơi vạn vật đang dàn trải ra đó; ở đấy có giáo pháp không?

– Vâng, có bạch đức Thế Tôn.

– Nó là gốc hay là ngọn?

– Chưa thấy thì nó là ngọn, thấy rồi nó cũng không khác gốc! Chúng duyên khởi!

– Thấy rồi, gốc ngọn ấy nó giống nhau ư? Nó hòa làm một ư? Hòa làm một trong cái duyên khởi ấy ư?

– Cái nào ra cái ấy, cái nào tính chất ấy dẫu chúng là duyên khởi!

Cũng như lần trước, đức Phật lại im lặng, bước đi. Chốc sau, ngài lại hỏi:

– Này Xá Lợi Phất! Bước chân của Như Lai đi có giáo pháp, vậy bước nhảy của con chim trên tảng đá kia có giáo pháp không?

– Bạch, có ạ!

– Có vì con chim tự biết ư?

– Không! Bạch đức Thế Tôn! Có, khi chính đệ tử nhìn bước nhảy ấy, tư tác về bước chân ấy.

– Vậy giáo pháp của ngươi thấy ấy với giáo pháp của Như Lai thuyết, cũng là một ư?

– Bạch, nó không hai!

Bây giờ đức Phật mới quay lại nhìn Xá Lợi Phất, mỉm cười nhẹ:

– Ông có biết không? Trong nhiều kiếp quá khứ, Như Lai đã từng chất vấn ông, và ông cũng đã từng chất vấn Như Lai. Nhưng nay thì Như Lai chỉ chất vấn ông, mà ông lại không chất vấn Như Lai!

– Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử còn tối tăm, ngu muội; quá khứ đã bị che lấp, đệ tử không hiểu gì. Mong đức Thế Tôn đại bi giáo hóa!

Im lặng giây lát, đức Phật nói:

– Hãy kham nhẫn, này Xá Lợi Phất! Ông là người có trí, chỉ cần vài nét đại cương là ông sẽ hiểu ra toàn bộ. Nhưng nay chưa phải thời. Hãy kham nhẫn!

Vậy là đúng một tuần sau khi ngài Mục Kiền Liên chứng ngộ, chợt nhiên đức Phật nói với Xá Lợi Phất:

– Hôm nay, ông có một người cháu, đã lớn tuổi, vượt đường xa đến thăm ông, y là một du sĩ ngoại đạo!

– Bạch đức Thế Tôn! Có lẽ đấy là đạo sĩ Dīghanakkha chăng?

– Nghe nói y học vấn uyên thâm, luận bác, tranh biện vào hàng trứ danh trong ngoại đạo?

– Bạch, quả đệ tử có nghe như vậy! Nhưng trước đây, lúc tranh luận với y, may mắn là đệ tử chưa từng thua cuộc!

Nói đến đây, Xá Lợi Phất quỳ xuống ôm chân đức Ðạo Sư:

– Bạch đức Thế Tôn! Y cũng là người có trí, chỉ còn rất ít bụi cát trong mắt thôi. Xin đức Thế Tôn vì bi mẫn, thuyết cho y nghe một thời Pháp về đạo Bất Tử!

Ðức Phật im lặng nhận lời.

Quả nhiên, không lâu sau, một đạo sĩ hành cước du phương tìm đến, ân cần thăm hỏi đức Xá Lợi Phất một cách chân tình, lễ độ.

Thấy tướng hảo quang minh, cùng nét mặt bình an, thanh thoát của đức Xá Lợi Phất, đạo sĩ Dīghanakkha đâm ra tò mò:

-Thưa cậu! Trước đây cậu khác mà bây giờ cậu khác. Trước đây mỗi lần cậu cháu ta tranh luận với nhau, nơi vầng trán cao của cậu dường như cau lại, nơi đôi mắt sắc bén, đầy khí lực của cậu dường như có gợn một thoáng mờ như hơi sương! Bây giờ thì không vậy, nó sáng rỡ, mênh mông và tỏa hào quang nữa!

Ðức Xá Lợi Phất mỉm cười, nhìn người cháu lớn tuổi, học thức cao rộng mà tính khí hồn nhiên, cởi mở và chân thực, lòng ngài tràn đầy thương mến.

Ðạo sĩ Dīghanakkha đi lui đi tới, hít thở, lắng nghe rồi nói:

– Thật là kỳ lạ! Không phải chỉ ở nơi cậu mà xung quanh đây cũng vậy, dường như toát ra sự bình an, mát mẻ và thanh khiết. Cái ấy không chỉ cảm nhận mà còn sờ được, ngửi được, nghe được! Tại sao kỳ lạ vậy chứ!

Ðức Xá Lợi Phất tự nghĩ: Cái ấy có được, có lẽ nhờ năng lực của  đức Tôn  Sư!

Chợt nhiên đạo sĩ Dīghanakkha quay lại:

– Thưa cậu! Chẳng hay cậu đang sống trong một giáo pháp như thế nào mà sớm được thành tựu pháp mầu như vậy?

Ðức Xá Lợi Phất ân cần nắm tay đạo sĩ :

– Này cháu! Khi đức Tôn Sư đã có mặt trên đời, nhất là khi đấng Vô Thượng lại đang ở đây thì cho dầu ít lời, ít chữ, ít câu của ngài thôi cũng sẽ đem đến cho cháu niềm vui Bất Tử! Ta là gì mà dám nói pháp bảo trước  đức Tôn  Sư!

Ðức Phật xuất hiện từ cửa động phía sau bước lại. Dīghanakkha nhìn sững. Tất cả từ nơi ngài toát ra, cho dù vua của đỉnh Hy Mã Lạp sơn (Himalaya) kia cũng phải cúi đầu xuống thấp. Dīghanakkha cung kính đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn. Sau đó đức Phật thuyết kinh Vedanā Pariggaha – tức là bài kinh nói về sự chấp thủ các cảm thọ(2) cho đạo sĩ Dīghanakkha nghe. Xong thời pháp, đạo sĩ đắc quả Tu Đà Hoàn.

Ðức Xá Lợi Phất hầu sau lưng đức Phật, nhờ để tâm chuyên chú vào thời pháp nên đắc quả A La Hán với bốn tuệ phân tích.

Như vậy, với sự thành tựu tri thức tối thượng, tuệ tối thượng, đức Xá Lợi Phất từ đây cũng đã đầy đủ điều kiện để làm một đại đệ tử nữa.

Biết người đệ tử của mình đã làm xong xuôi bổn phận cuối cùng cũng như ngài Mục Kiền Liên đã xong xuôi quả vị cách đây một tuần lễ, đức Phật, ngay lúc ấy, chợt đứng lên:

– Này Xá Lợi Phất! Bây giờ hãy cùng Như Lai lên đường trở về Trúc Lâm tịnh xá. Chúng ta còn nhiều việc phải làm!

Ðến đây thì đức Xá Lợi Phất chợt hiểu: “Ðúng là cái thấy biết vi diệu của bậc Toàn Tri Diệu Giác. Là phàm nhân, cho dầu một vị thánh A La Hán cao nhất cũng khó hiểu được những diễn biến, những ý nghĩ, những tri kiến, những dự định trong tâm của một vị Phật. Hóa ra, đức Thế Tôn đột ngột rời Trúc Lâm tịnh xá đến hang động này cũng chỉ để thành tựu cho mình quả vị cuối cùng. Hóa ra, đức Thế Tôn chỉ nói vắn gọn vài lời gợi ý cho Mục Kiền Liên cũng là để thành tựu cho Mục Kiền Liên quả vị A La Hán nơi ngôi làng tịch mịch, thanh vắng nọ. Quả thật, các vị Phật xuất hiện ở đời, một biểu hiện nhỏ của các ngài, qua thân, qua khẩu, qua ý, bao giờ cũng toàn thiện, toàn chân, toàn mỹ; lúc nào cũng lợi lạc cho quần sanh”.

Ngay chiều tối hôm đó, tại Trúc Lâm tịnh xá, đức Thế Tôn bố cáo một cuộc họp rộng rãi, đầy đủ hơn một ngàn thầy tỳ-khưu cùng những cư sĩ tại gia, rồi ngài nói rằng:

– Trước đầy đủ chư tăng, đầy đủ hai hàng cư sĩ áo trắng, Như Lai muốn tuyên bố một tin quan trọng cho giáo pháp, để từ đó giáo pháp mới có thể phát triển vững mạnh, lan xa nhiều quốc độ. Là từ đây, Như Lai đã có hai vị đại đệ tử, là trưởng tử của Như Lai, là con được sinh ra từ miệng của Như Lai, đó là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Xá Lợi Phất là đệ nhất đại đệ tử, Mục Kiền Liên là đệ nhị đại đệ tử. Họ sẽ là hai cánh tay trợ thủ đắc lực cho Như Lai, được quyền thay mặt Như Lai giải quyết tất cả mọi lĩnh vực thuộc về phật sự hay tăng sự. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên quả thật xứng đáng là thượng thủ của giáo hội. Như Lai trân trọng tuyên bố như vậy.

Ðức Phật vừa nói xong, đại chúng xôn xao bàn tán. Có nhiều tranh luận nho nhỏ đã xảy ra. Người ta không hiểu tại sao đức Thế Tôn không dành danh dự tối cao này cho các vị tỳ-khưu trưởng lão, cao hạ như nhóm năm ngài Kiều Trần Như, như nhóm ngài Yasa? Hoặc như nhóm ba mươi vị tỳ-khưu ở Chư-thiên-đọa-xứ? Thảng hoặc là nhóm ba anh em ngài Ca Diếp, có cả ngàn đồ chúng, tuổi cao, đức trọng có thể là xứng đáng nhất bước vào hàng thượng thủ của giáo hội? Còn đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, mặc dầu được đức Thế Tôn tuyên bố là “con của Như Lai”, tức là đã chứng quả A La Hán nhưng họ đều là người trẻ tuổi, lại chỉ gia nhập giáo hội vừa đúng nửa tháng! Vậy có thể nào, đức Thế Tôn, bậc vô thượng Chánh Ðẳng Giác lại có tâm thiên vị?

Ðức Phật hướng tâm đến, biết tâm của đại chúng, ngài nói rằng:

– Này các thầy tỳ-khưu! Như Lai không hề thiên vị. Như Lai làm như vậy là hoàn toàn do sự thấy biết của Như Lai .

Hãy nghe đây, các thầy tỳ-khưu! Quả thật năm ông Kiều Trần Như tuổi tác cao trọng, là những bậc trí thức, trí tuệ, hạ lạp cao nhất, rất xứng đáng vào hàng thượng thủ. Tuy nhiên, ở một kiếp quá khứ, khi họ bố thí vật thực chín lần trong mùa gặt, họ không có nguyện vọng trở thành đại đệ tử. Họ chỉ phát nguyện bước vào giáo pháp của Như Lai đầu tiên và chứng được phẩm hạnh cao nhất. Giờ đây họ đã mãn nguyện. Ðiều đó có đúng sự thật không, hỡi nhóm ông Kiều Trần Như?

Nhóm các ngài Kiều Trần Như đồng bước ra, quỳ xuống đảnh lễ dưới chân đức Phật, bạch rằng:

– Quả đúng như vậy, bạch đức Tôn Sư! Phẩm hạnh cao nhất và đầu tiên chính là phát nguyện của chúng đệ tử.

Ðức Phật im lặng một lát rồi tiếp:

– Còn rất nhiều vị A La Hán khác xứng đáng vào hàng thượng thủ nữa, như nhóm ông Yasa, nhóm các ông ở Chư-thiên-đọa-xứ (Isipatana), nhóm các ông Ca Diếp (3 anh em Kassapa). Nhưng họ cũng vậy, trong họ, không ai đã từng phát nguyện làm đại đệ tử cả, có phải thế không?

Dường như có một số vị thánh im lặng nhắm mắt, hướng tâm về quá khứ, sau đó, ngài Ca Diếp (Uruvelā – Kassapa), thay mặt mọi người, bạch:

– Quả đúng như vậy! Thưa đức Tôn Sư!

Khi việc quá khứ không còn bị che lấp bởi sự tiết lộ của chư thánh tăng, nhất là sự xác nhận của ngài Ca Diếp, bậc đạo cao đức trọng, đại chúng đều hoan hỷ.

Ðức Phật lại tiếp:

– Còn hai ông Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, trong vô lượng quá khứ trước đây, vào thời đức Phật Anomadassī, họ sinh ra làm một người bà-la-môn có tên là Nārada, và một người làm điền chủ có tên là Sirivaddhaka; nguyện vọng của họ là trở thành đại đệ tử khi gặp đức Phật trong kiếp cuối cùng.

Vậy này các thầy tỳ-khưu! Như Lai không hề thiên vị! Như Lai vì thấy, vì biết nguyện vọng của mỗi người nên bây giờ, Như Lai chỉ trả lại phẩm vị cho họ, đúng với nguyện vọng của họ mà thôi!

Ðại chúng thở phào, nhẹ nhõm.

Một đức Thế Tôn, một bậc Chánh Ðẳng Giác khi tuyên bố một lời nào là đều có nhân, có quả, đều vì lý do chánh đáng, đều vì lợi ích lâu dài, hạnh phúc cho nhiều người.

Từ đây, đức Xá Lợi Phất và đức Mục Kiền Liên nhận lãnh vai trò và trách nhiệm mới trong việc phục vụ giáo hội, làm nhị vị đại đệ tử đã được đức Tôn Sư tấn phong với tất cả uy tín và danh dự cao trọng trước đại chúng môn đồ.

 


Chú thích:

(1) Lúc ấy chưa có tỳ-khưu-ni

(2) Tức là rơi vào 4 phạm trù chấp thủ: Tôi thích thú cảm thọ, tôi không thích thú cảm thọ, tôi vừa có vừa không thích thú cảm thọ, tôi không có, không không  thích thú cảm thọ.