Dhammapada – Kinh Lời Vàng

15/02/2013 | Chuyên mục: KINH . 60417 Lượt xem

Chương XXII

NIRAYAVAGGA

(Phẩm Khổ Cảnh) (1)

 

 

306.
Người do vọng dối, nói quàng
Chết sanh khổ cảnh thở than nỗi gì?
Kẻ làm, lại chối quách đi
Hai tên một giuộc: Tiện tỳ, tiểu nhân!

Abhūtavādī nirayaṃ upeti
yo vā pi katvā na karomi cāha,
ubhopi te pecca samā bhavanti
nihīnakammā manujā parattha.

 

307.
Xuất gia, tâm chẳng xuất gia
Bao nhiêu xấu ác “trong nhà” còn y!
Lòng đầy hươu vượn sân si
Mở cửa địa ngục mà đi “hưởng nhàn”!

Kāsāvakaṇṭhā bahavo
pāpadhammā asaññatā,
pāpā pāpehi kammehi
nirayaṃ te upapajjare.

 

308.
Thà rằng sắt đỏ nuốt tươi!
Thà rằng lửa hực, dầu sôi dạ dày!
Còn hơn ngửa bát trên tay
Ăn nhờ vật thực Đông Tây tín thành
Người ngu chẳng niệm điều lành
Thân tâm ác giới, loạn hành nhớ cho!

Seyyo ayoguḷo bhutto
tatto aggisikhūpamo,
yañce bhuñjeyya dussīlo
raṭṭhapiṇḍamasaññato.

 

309.
Tà dâm, tà vạy vợ người
Bốn điều bất hạnh đến thời phải vương:
Một, chịu họa hại tai ương
Hai là khó ngủ, dạ thường lo âu
Ba, đời phỉ nhổ ngập đầu
Bốn đọa địa ngục, đâm xâu, cột đùm!

Cattāri ṭhānāni naro pamatto
āpajjati paradārūpasevī,
apuññalābhaṃ na nikāmaseyyaṃ
nindaṃ tatīyaṃ nirayaṃ catutthaṃ.

 

310.
Tội đầy phải vác, phải bưng
Bất hạnh chạy đuổi, còng lưng mà bò!
Khoái lạc mảnh tợ đường tơ
Lại hoảng, lại sợ – vui so thấm gì?!
Luật vua, hình trọng kéo đi
Gặt quả khốc liệt, dính chi vợ người!

Apuññalābho ca gatī ca pāpikā
bhītassa bhītāya ratī ca thokikā,
rājā ca daṇḍaṃ garukaṃ paṇeti
tasmā naro paradāraṃ na seve.

 

311.
Ai người lấy cỏ kusa?
Nếu tay vụng nắm, thịt da cắt lìa!
Hạnh sa-môn cũng thế kia
Tu hành không khéo, đội bia ngục hình!

Kuso yathā duggahito
hatthamevānukantati,
sāmaññaṃ dupparāmaṭṭhaṃ
nirayāyupakaḍḍhati.

 

312.
Một hành, dễ dãi buông lung
Một tâm ô nhiễm khởi cùng ác tri
Một thêm phạm hạnh đáng nghi
Cả ba điều ấy, mong gì quả vui?!

Yaṃ kiñci sithilaṃ kammaṃ
saṃkiliṭṭhañca yaṃ vataṃ,
saṅkassaraṃ brahmacariyaṃ
na taṃ hoti mahapphalaṃ.

 

313.
Có điều phải, hãy nên làm
Từng bước vững chắc, kiên gan hành trì
Đời tu sĩ có ra gì:
Dể duôi, tung bụi, càng khi càng mờ!

Kayirā ce kayirāthenaṃ
daḷhamenaṃ parakkame,
sithilo hi paribbājo
bhiyyo ākirate rajaṃ.

 

314.
Không nên làm xấu, hay hơn!
Dẫu là ác nhỏ, khổ buồn về sau
Hãy nên làm tốt, làm mau!
Điều lành, mai hậu – chẳng cầu cũng vui!

Akataṃ dukkaṭaṃ seyyo
pacchā tappati dukkaṭaṃ,
katañca sukataṃ seyyo
yaṃ katvā nānutappati.

 

315.
Như trên ải trấn biên thùy
Quan quân bảo vệ, ngăn nguy giặc ngoài
Thân tâm phòng hộ, hỡi ai!
Sát-na biếng trễ, “gia tài” còn đâu?
Bỏ qua cơ hội (2) pháp mầu
Đọa vào địa ngục, khổ sầu chẳng nguôi!

Nagaraṃ yathā paccantaṃ
guttaṃ santarabāhiraṃ,
evaṃ gopetha attānaṃ
khaṇo vo mā upaccagā,
khaṇātītā hi socanti
nirayamhi samappitā.

 

316.
Thẹn thùa những việc quàng xiêng
Lại không hổ thẹn chuyện nên thẹn thùa!
Ai người tà kiến vậy kia?
Bàng sanh ác thú, mang hia nhảy vào!

Alajjitāye lajjanti
lajjitāye na lajjare,
micchādiṭṭhisamādānā
sattā gacchanti duggatiṃ.

 

317.
Sợ hãi những chuyện gì đâu
Lại không sợ hăi, lo âu đáng điều
Ôm ấp tà kiến ấy nhiều
Người ngu đọa khổ, chẳng “siêu” được nào!

Abhaye bhayadassino
bhaye cābhayadassino,
micchādiṭṭhisamādānā,
sattā gacchanti duggatiṃ.

 

318.
Không chi, lại thấy lỗi lầm
Lỗi lầm lại nghĩ tầm ngầm là không!
Người ngu tà kiến, si ngông
Rớt vào cảnh khổ, đi tong cuộc đời!

Avajje vajjamatino
vajje cāvajjadassino,
micchādiṭṭhisamādānā
sattā gacchanti duggatiṃ.

 

319.
Việc sai thì bảo rằng sai
Việc đúng, thấy đúng ai ngoài trí nhân?
Đi đâu chánh kiến theo chân
Khói sương khinh khoát – nhàn vân gót hoài!

Vajjañca vajjato ñatvā
avajjañca avajjato,
Sammādiṭṭhisamādānā
sattā gacchanti suggatiṃ.

 

________________________________________________

Chú thích:

 

(1) Niraya là địa ngục; tuy nhiên nhiều viếc xấu ác trong phẩm đa phần là khổ cảnh nói chung – nên tôi dịch là “khổ cảnh” y dịch giả Phạm Kim Khánh.

(2) Cơ hội: Có Phật đản sanh, có giáo pháp, có thiện trí thức, có chánh kiến, có nơi ở thuận lợi, có  ngũ quan đầy đủ, thân thể khoẻ mạnh